73. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƯ SĨ TRÍ THỨC VÀ PHẬT GIÁO

Số kí hiệu Ths. Thích Thiện Huy Uỷ Viên BTS GHPGVN tỉnh Đồng
Ngày ban hành 20/11/2022
Thể loại Văn kiện đạI hộI phật giáo khóa ix
Lĩnh vực THAM LUẬN ĐẠI HỘI PHẬT GIÁO KHÓA IX (2022-2027)
Cơ quan ban hành BAN TỔ CHỨC ĐẠI HỘI KHÓA IX
Người ký BAN NỘI DUNG ĐẠI HỘI PHẬT GIÁO KHÓA IX (2022-2027)

Nội dung

MỐI QUAN HỆ GIỮA CƯ SĨ TRÍ THỨC VÀ PHẬT GIÁO
 
Ths. Thích Thiện Huy
Uỷ Viên BTS GHPGVN tỉnh Đồng Nai.
 
THAM LUAN 73 copy

1. Dẫn Nhập
Đức Phật lịch sử của chúng ta không đồng ý với nhiều lời dạy của Bà La Môn, Kỳ Na Giáo, và những người khác tôn giáo trong thời của Ngài. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn cũng đã dạy các môn đệ của mình tôn trọng giáo sĩ và tín đồ của các tôn giáo khác.
Mặc dù giáo lý của nhiều tôn giáo rất khác nhau và thường đối lập với nhau, nhiều người trong chúng ta coi tất cả các tôn giáo là những giao diện khác nhau (có thể) cùng một thực tế. Vấn đề là mọi người nhầm giao diện với thực tế. Như chúng ta nói trong Thiền, bàn tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng. Đôi khi ngay cả niềm tin của “Đấng sáng tạo” cũng có thể trở thành một upaya , một phương tiện khéo léo để nhận ra sự khôn ngoan. Nhiều học thuyết khác với giáo lý Phật giáo có thể hoạt động như phương tiện để khám phá tâm linh và suy tư nội tâm. Đây là một lý do khác tại sao Phật tử không nhất thiết phải đau khổ bởi giáo lý của các tôn giáo khác.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 phát biểu rằng: "Tuy nhiên, nếu bạn chấp nhận Phật giáo là tôn giáo của mình, bạn vẫn phải duy trì sự đánh giá cao đối với các truyền thống tôn giáo lớn khác. Ngay cả khi họ không còn làm việc cho bạn nữa, hàng triệu người khác đã nhận được lợi ích to lớn từ họ trong quá khứ và tiếp tục làm như vậy. Do đó, điều quan trọng là bạn phải tôn trọng họ[1] ". Vì vậy, trong hầu hết các tự viện của Phật giáo sự thay đổi tôn giáo hay khuyến khích người khác theo tôn giáo mình là không được khuyến khích. Proselytizing được định nghĩa bởi các từ điển là cố gắng chuyển đổi một người từ tôn giáo hoặc tín ngưỡng này sang tôn giáo khác, hoặc lập luận rằng vai trò tôn giáo của bạn là duy nhất đúng[2]
Tất nhiên, một nhận thức như vậy là cần thiết cho mỗi con người, không riêng gì các tu sĩ Phật giáo. Đây là lý do tại sao Đức Phật để lại cho chúng ta Năm, Tám và Mười Giới - cũng như 250 quy tắc Paatimokkha của Tỳ khưu. Những giới luật và quy tắc này vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay như cách đây 2.500 năm vì chúng khôi phục sự tập trung trở lại đời sống lợi ích thiết thực của nhân loại, về cách hành động và lời nói ảnh hưởng đến cá nhân và thế giới. 
Mặc dù không bắt buộc theo bất kỳ cách nào, nhưng việc tôn kính theo cách truyền thống đối với Đức Phật hoặc Tăng đoàn là dấu hiệu cơ bản nhất cho thấy sự tôn kính của một người cư sĩ đối với Tam bảo. Nó cũng là một bài tập tuyệt vời về chính niệm. Để học cách chính xác và đầy đủ nhất để thực hiện hành động này, thường dễ nhất là noi gương một cư sĩ có kinh nghiệm hoặc bản thân các tỳ khưu, những người cũng phải tôn kính Đức Phật hoặc chư tôn đức Trưởng lão có đời sống mô phạm.
2. Một số vấn đề khi chọn lựa thành phần cộng tác.
Luật tạng “Pali Vinaya-pitaka, bộ quy tắc cho các bộ phái Phật giáo, cấm các tu sĩ nam nữ thuyết giáo cho những người có vẻ không quan tâm hoặc thiếu tôn trọng. Điều đó cũng đồng nghĩa với các quy tắc trong Luật tạng nhằm không cho phép hàng Tăng sĩ nói pháp cho những người ngồi trên xe, hoặc đi bộ, hoặc đang ngồi trong khi tu sĩ đang đứng. Và quan trọng nhất, hàng cư sĩ lỗi lạc tri thức, đã từng có vai trò quan trọng, có cống hiến hàng đầu đối với Phật giáo Việt Nam trong quá khứ đều là Phật tử, đã thọ trì Tam quy, Ngũ giới kính tin Tam bảo, làm Phật sự không biết mệt mỏi, kính trọng Tăng bảo,  và tôn làm Thầy, như cụ Mai Thọ Truyền quy y với Hòa thượng Thích Hành Trụ, được đặt pháp danh là Chánh Trí.  Bác sĩ Lê Đình Thám đã thành kính xin quy y với Hòa thượng Giác Tiên, được Hòa thượng ban cho pháp danh là Tâm Minh. Cụ Đoàn Trung Còn, Pháp danh Hồng Tại, là huynh đệ với các Ngài Hồng Tín, Ngài Hồng Ảnh, cống hiến nhiệt thành qua nhiều tác phẩm nghiên cứu kinh điển như: Tứ thư ngũ kinh; Từ điển Phật học Việt Pháp Hán Phạn, đạo lý, văn minh, triết học, lịch sử, pháp giáo, Tăng Đồ nhà Phật;…[3]
 Từ chư trí giả cư sĩ này, cuộc đời của các vị gắn bó mật thiết với Phật giáo và hết mình phụng sự Chánh pháp… Đó là những tấm gương mẫu mực mà chư tôn đức Trưởng lão chọn lựa mẫu hình cư sĩ trí thức dấn thân phụng sự Phật pháp, như trong kinh Pháp Cú 6, phẩm Hiền trí, câu 76: “Nếu thấy bậc hiền trí, Chỉ lỗi và khiển trách, Như chỉ chỗ chôn vàng. Hãy thân cận người trí! Thân cận người như vậy, Chỉ tốt hơn, không xấu”.
Chúng ta rất thận trọng khi thân kẻ trí, tức là người Trí nhưng là “Hiền Trí”, chứ không phải dùng trí thế gian, “thế trí biện thông” để biện giải trong vòng luẩn quẩn, sanh tử luân hồi này, trong kinh Pháp Hoa, phẩm An lạc hạnh, “Thế nào gọi là chỗ "thân cận" của Đại Bồ tát? Vị đại Bồ Tát chẳng gần gũi Quốc vương, Vương tử, Đại thần, Quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại-đạo, Phạm Chí, Ni Kiền Tử,… và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái "Lộ-già-da-đà", phái "Nghịch-lộ-già-da-đà", bày các cuộc chơi biến hiện. Đây là chỗ gần gũi, nghĩa là phải gần gũi người nào, và không nên gần gũi người nào, thì đây không nên gần gũi chư vị vương giả, Đại Thần, Quan trưởng… Không gần gũi ngoại đạo, phạm chí, ni-kiền-tử là những người thuộc về tà kiến, mình gần gũi đó nó làm chướng ngại chánh tri kiến của mình khi mình còn sức yếu. Không gần gũi hạng ngoại đạo "lộ già da đà" là thuận thế ngoại đạo. Còn nghịch lộ-già-da-đà là nghịch thế,  Đó là lời của chư Phật, chư Tổ dạy cách ngăn ngừa những thị phi dính vào trong hạng quyền thế, danh lợi. Có khi gần gũi đó sẽ gặp những duyên chướng ngăn thánh đạo cho các bậc hành giả. 
Nên chăng các bộ phận, cơ quan nghiên cứu hay giảng dạy trong Phật giáo, phải chọn lọc rõ ràng các bậc trí giả, nhà giáo phải là những vị hiền giả tín tâm, đạo đức đã phát tâm quy y Tam bảo, thọ trì giới Phật, họ sẽ có cách nhìn, cách giảng dạy chuẩn mực đối với chư Tăng Ni, và nghiên cứu giáo lý Phật, lịch sử Phật trong chánh tuệ, chánh tư duy, khi đó các giá trị giảng dạy, nghiên cứu sẽ là chánh tri, chánh kiến để định hướng các giới học thuật, học giả không bị lệch lạc.
3. Sự cống hiến phụng sự Phật giáo
Những bậc thiền sư lỗi lạc như Thiền Sư Khuông Việt, Thiền Sư Vạn Hạnh nuôi dạy Lý Công Uẩn tại nhà chùa, sau lên ngôi chánh vương[4], dời đô từ Hoa Lư về đến đất Thăng Long[5] phát triển rực rỡ, được các minh vương chọn làm đất kinh đô đến nay, nhà Lý thịnh trị đến hơn 100 năm. Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con sau khi đại thắng quân Mông Nguyên, tu hành thành Phật Hoàng Trần Nhân Tông, lại còn dùng các giá trị đạo đức nhà Phật để giáo hóa quần chúng làm thiện, đem lại bình an cho đất nước, chu du khắp chốn, mở rộng đất nước, cho đến Bồ tát Thích Quảng Đức và chư vị lịch đại tổ sư Phật giáo Việt Nam đều nêu cao tinh thần “yêu nước, thương dân,tự cường bất khuất của dân tộc. Phật giáo quả thật là chất liệu, hệ giá trị tư tưởng quan trọng trong việc thống nhất lòng dân và là kết tinh quý báu của các triều đại minh quân huy hoàng trong lịch sử dân tộc nhất là triều đại Lý Trần. 
Hiện tại, các bậc tiền bối đã bất khuất kiên cường, lãnh đạo tinh thần dân tộc cũng từ những tầng lớp tri thức, giai cấp nông dân thuần hậu vì lý tưởng yêu nước, mến dân, đã thay đổi lý tưởng dân dã bình thường trở thành các bậc hiền đức bảo vệ bờ cõi vững bền, thịnh trị, muôn đời được con dân đất Việt tôn thờ. Hay ngay như các học giả tri thức, cũng từ một người bình thường, đến trường học, trải qua nhiều giai đoạn giáo dục mới trở thành những nhà giáo lỗi lạc phụng sự trong tầng lớp thượng tầng, định hướng tư tưởng xã hội, khi anh đã trở thành nhà giáo thì người ta không thể cư xử, hay đối với anh như ở vai trò bình thường lúc trước, mà tôn trọng tin tưởng anh, tuy vậy anh phải nên biết rõ ràng về vị trí và vai trò của mình. Cả một quá trình thay đổi từ lượng về chất, để anh có bước nhảy vọt đúng thời điểm vào vị trí đó, tất nhiên mọi người sẽ lắng nghe khi những thứ anh phát ngôn là chuẩn mực và định hướng xã hội phát triển bền vững, và sẽ có phản biện sâu sắc của xã hội nếu anh đi ngược lại những giá trị đạo đức và tổn thương các giai tầng xã hội, vốn là một chỉnh thể đoàn kết cùng phát triển.
Quan trọng hơn hết, nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người:“Đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước”[6], Hồ Chí Minh nói: “Đức Phật dạy tín đồ, con người thông hiểu, tu hành từ muôn vàn giáo lý, đặng kết đọng hướng tới sống theo đức hạnh cao nhất:“Hãy gấp làm điều thiện, ngăn tâm làm điều ác” và khẳng định: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức cao quý của con người; tứ đức ấy, đức nào cũng quý, cũng cần, như bốn mùa của trời, bốn phương của đất, thiếu một đức, thì không thành người. Hay Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của cách mạng. “Dân” là chỉ mọi người con đất Việt, đều là con Rồng cháu Tiên, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, già hay trẻ..:“Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Người khuyên: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” và khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”[7]. Vậy hiện nay lại có học giả nhân danh tri thức, lại có những phát ngôn, hành động đi ngược lại với các lời dạy cao cả của Bác, chia rẻ tính đoàn kết các tầng lớp của dân tộc. Trong khi đó khi học, khi dạy về những vấn đề học tập và làm việc theo tấm gương của Hồ Chí Minh thì họ làm như có vẻ rất thẩm thấu và am tường.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng nhận định tại Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019: Phật giáo là tôn giáo có lịch sử từ lâu đời, gắn bó sâu sắc với văn hóa truyền thống và đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, với tấm gương sáng của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Từ hào quang của ngôi vương cao quý, niềm kiêu hãnh anh dũng chiến thắng ngoại xâm, Ngài đã đến với chân lý anh minh, từ bi, hỷ xả của giáo lý Phật giáo và hành đạo cứu giúp muôn dân. Nối tiếp truyền thống, trong nhiều năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã không ngừng phát triển và lớn mạnh, thể hiện rõ ý chí hòa hợp, đoàn kết và thống nhất, khẳng định ví trí, vai trò, góp phần xây dựng đất nước.  Nhiều học giả xem Ðức Phật là một nhà cải cách xã hội vì Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và công nhận quyền bình đẳng của con người. Từ đó, các giá trị về bình đẳng, lòng từ bi, giá trị đạo đức của Đức Phật hiện là di sản của nhân loại, và Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của hơn 25 thế kỷ qua, do đó các học giả khi quan sát hiện tượng xã hội để cùng tham gia phản biện thì phải nhìn lại những giá trị cao đẹp mà Phật giáo đã và đang góp phần đóp góp cho xã hội, chứ không nên đưa ra các phát ngôn gây sốc, gây chú ý, đánh bóng tên tuổi bằng những lời nói khiếm nhã, không phù hợp chuẩn mực, gây hoang man của dư luận.
4. Thận trọng khi dùng trí thức để nhận định các hiện tượng xã hội.
Thời Đức Phật, Tăng đoàn đã đi từ nơi này đến nơi khác để làm cho giáo lý của Đức Phật có sẵn cho tất cả những ai tìm kiếm nó. Điều mà chúng ta không làm là cố gắng chuyển đổi mọi người từ các tôn giáo khác và chúng ta không cố gắng "phổ biến" Phật giáo cho những người không quan tâm, không đủ nhận thức để tiếp nhận và phổ quát đến khắp tất cả đang cần tìm kiếm một niềm tin thông tuệ, hiền triết, từ bi. 
Một văn bản trong Pali Sutta-pitaka được gọi là Ayacana Sutta (Samyutta Nikaya 6) cho chúng ta biết rằng chính Đức Phật đã miễn cưỡng giảng dạy sau khi giác ngộ, mặc dù sau đó Ngài cũng chọn dạy.
"Pháp này sâu sắc, khó nhìn, khó nhận ra, hòa bình, tinh tế, vượt ra ngoài phạm vi phỏng đoán, tinh tế, có thể tiếp cận ngay cả với người khôn ngoan chỉ qua kinh nghiệm", Ngài nói với chính mình. Và Ngài nhận ra mọi người sẽ không hiểu được giáo pháp; để "nhìn thấy" sự khôn ngoan của pháp, người ta phải thực hành và tự mình trải nghiệm sự phân biệt, thông tuệ có thực hành.
Nói cách khác, thuyết giảng pháp không chỉ là vấn đề trao cho mọi người một danh sách các giáo lý để tin mà để chiêm nghiệm, thực hành. Đó là thiết lập mọi người trên con đường thực hiện chánh Pháp lợi lạc, hạnh phúc cho chính họ. Và đi trên con đường đó cần sự cam kết và quyết tâm, là cách thuyết giảng chân chínhNhững người đang đi ngược lại các nhận định có được trong sự trải nghiệm, hành trì tuệ giác mà làm cho số đông bị ảnh hưởng bởi tà kiến thế trí dù bạn có là ai đi nữa, bạn cũng nhận lấy những nghiệp duyên xấu vì bởi hành động làm cho sống đông bị tác động về niềm tin tôn giáo, nhu cầu cao nhất của nhân loại hiện tại.
Và nếu điều đó trở nên quan trọng với bạn để chứng minh với thế giới rằng “cái biết” của bạn là cái biết về niềm tin duy nhất đúng, và bạn phải dẫn dắt mọi người khác thoát khỏi những cái thấy sai lầm của họ, điều đó nói gì về bạn ?
Thứ nhất, nó nói bạn đã có một tiếng còi xe lớn để cố gắng làm cho toàn nhân loại nghe được, biết đến “

 File đính kèm

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây