HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẤT NƯỚC HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
Ban Giáo dục Phật giáo TWGHPGVN
1. Dẫn nhập Ban Giáo dục Phật giáo là một trong sáu Ban được thành lập ngay từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) thành lập vào năm 1981. Chứng tỏ chư Tôn đức lãnh đạo Giáo hội bấy giờ đã xác lập vai trò và vị trí của Ban Giáo dục Phật giáo là rất quan trọng trong hệ thống tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ban Giáo dục Phật giáo có chức năng đào tạo nguồn nhân lực cho Giáo hội, duy trì mạng mạch Phật giáo phát triển vững bền. Bài tham luận này chỉ tập trung bàn về “Hướng phát triển Giáo dục Phật giáo Việt Nam thời Đất nước hội nhập và phát triển” của kỷ nguyên 4.0 như là quy luật vận động tất yếu của lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam. 2. Khái quát về thành tựu Giáo dục Phật giáo Việt Nam hiện nay. Ngày nay, Ban Giáo dục Phật giáo là một trong 13 Ban, Viện của. Được sự quan tâm hướng dẫn giúp đỡ tận tình của Đảng và Nhà nước, Ban Tôn giáo Chính phủ và chính quyền các cấp; sự quan tâm và chỉ đạo sâu sắc của chư Tôn đức lãnh đạo GHPGVN, Ban Giáo dục Phật giáo đã thực thi chủ trương đào tạo nhân tài, cung cấp nguồn nhân lực cho Giáo hội và quản lý đào tạo giáo dục Phật giáo mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam giao phó. 2.1. Về mặt tổ chức. Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương là cơ quan quản lý hành chính cao nhất đối với các tổ chức giáo dục Phật giáo trong cả nước, hoạt động giáo dục đào tạo của các trường Phật học trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây là Ban có tính chất chuyên môn và mang tính đặc thù, vì vậy nguồn nhân sự của Ban cũng cần có chuyên môn hóa, đến nay điểm nổi bật nhất của Ban là kiện toàn không chỉ khung nhân sự điều hành tổ chức mà còn thiết lập các Hội đồng chuyên môn, Hội đồng Khoa học của Ban để định hướng chương trình hoạt động giáo dục và thẩm định Giáo dục Phật giáo Việt Nam, đồng thời các phân ban chuyên môn, và cả Hội Đồng biên soạn sách Giáo khoa và Hội đồng Thẩm định sách Giáo khoa các cấp. 2.2. Về Hệ thống Giáo dục Phật giáo Việt Nam. Hệ thống Giáo dục Phật giáo bao gồm 4 Học viện Phật giáo Việt Nam (HVPGVN) gồm: Học viện PGVN tại Hà Nội, Học viện PGVN tại Huế, Học viện PGVN tại TP. Hồ Chí Minh, Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ, có chức năng đào tạo chương trình Đại học Phật giáo (Cử nhân, Cao đẳng Phật học), và Sau Đại học (Thạc sĩ và Tiến sĩ Phật học). Cao đẳng Phật học có 9 lớp có chức năng đào tạo chương trình Cao đẳng Chuyên khoa và Cao đẳng liên thông). Trung cấp Phật học gồm có 35 trường Trung cấp Phật học trong cả nước, và Trường Trung cấp Pali Nam bộ có chức năng đào tạo Trung cấp Phật học, có 50 lớp Sơ cấp Phật học. 2.3. Công tác đào tạo - cung cấp nguồn nhân lực cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Cho đến nay, Giáo dục Phật giáo đã hoàn thiện hệ thống Giáo dục Phật giáo có chiều sâu mang tính phát triển, hòa nhập vào hệ thống quy chuẩn của nền giáo dục Quốc dân đi từ nền tảng đến phát triển thượng tầng. Đây là kết quả đúc kết từ buổi đầu ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến nay. Về đào tạo Sau Đai học, các Học viện đã đào tạo 101 Thạc sĩ tốt nghiệp, đang học thạc sĩ 337 học viên, chương trình Tiến sĩ có 50 Nghiên cứu sinh.Bốn Học viện Phật giáo Việt Nam đã đào tạo 12.230 Tăng Ni sinh tốt nghiệp hệ cử nhân Phật học (chính quy và từ xa), đang đào tạo 2863 hệ Cử nhân và Từ xa. Hệ Cao đẳng Phật học cả nước, cho đến nay đã đào tạo gần 6000 Tăng Ni sinh tốt nghiệp. Các lớp Cao đẳng Phật học tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo với 3600 Tăng Ni sinh theo học. Các Lớp cao đẳng Liên thông đang được đào tạo tại Học viện PGVN tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và ở Cần Thơ và Bà Rịa Vũng-Tàu, Tiền Giang, khoảng 1050 Tăng Ni sinh. Hệ Trung cấp Phật học cả nước đã đào tạo 9.315 Tăng Ni sinh tốt nghiệp.Các trường đang triển khai chương trình đào tạo Trung cấp Phật học cải cách 3 năm do Ban Giáo dục Phật giáo chủ trương. Nội dung giảng dạy theo Bộ sách Giáo Khoa do Ban biên soạn, có sự kết hợp hài hoà giữa nội điển và ngoại điển, đang đào tạo 3.711 Tăng Ni sinh. Các lớp đào tạo chương trình Phật học Nam tông Khmer, do tính đặc thù của Hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer tạicác tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Trung cấp Pali Nam bộ tại tỉnh Sóc Trăng, mở các lớp Vini, Pali Trung cấp, Sơ cấp, Khmer ngữ và bổ túc văn hóa cấp 1, 2, 3; lớp dạy Anh văn, tin học cho chư Tăng Phật giáo Nam tông Khmer. Hiện đã đào tạo khoảng 2700 Tăng sinh tốt nghiệp, và đang đào tạo 2195 Tăng sinh theo học. Hệ Sơ cấp Phật học cả nước đã đào tạo 5.500 Tăng Ni sinh tốt nghiệp, đang đào tạo 3.500 Tăng Ni sinh, Ban Chủ nhiệm các lớp Sơ cấp Phật học thực hiện việc giảng dạy theo chương trình do Ban Giáo dục Phật giáoấn định. Về công tác Đào tạo Tăng Ni sinh du học nước ngoài, Ban và các Học viện đã giới thiệu hơn gần 550 Tăng Ni sinh du học chương trình cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ Phật học tại các nước như: Ấn Độ, Trung Quốc, Myanmar, Sri-Lanka, Thái Lan, Pháp, Nhật, Mỹ, Úc và Đài Loan,... Hiệncó trên 300Tăng Ni tốt nghiệp tiến sĩ và thạc sĩ chuyên ngành Phật học đã trở về nước tham gia giảng dạy tại các Học viện và các trường Phật học, hoặc tham gia công tác Phật sự cho các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 2.4.Ký hợp tác đào tạo với các trường đại học Phật giáo trên thế giới. Trong xu hướng hội nhập và phát triển cảu Đất nước, dưới sự chỉ đạo của Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương các Học viện Phật giáo Việt Nam đã chính thức liên kết đào tạo với một số đại học danh tiếng ở nước ngoài như: đại học Nalanda và Trung tâm Phật họcK.J.Somaiya (Ấn Độ), đại học Mahachulalongkorn (Thái Lan), đại học Sư phạm Phúc Kiến, đại học Sư phạm Hoa Trung và đại học Liên Hợp Bắc Kinh (Trung Quốc), đại học Phật Quang Sơn (Đài Loan)…. góp phần nâng cao uy tín cho giáo dục Phật giáo Việt Nam, đồng thời mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới. 2.5. Hỗ trợ công tác đối ngoại cho Giáo hội về chuyên môn và học thuật. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương GHPGVN và sự lãnh đạo của Hoà thượng Trưởng Ban Thích Thanh Quyết, Ban Giáo dục Trung ương đã tham gia hỗ trợ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức thành công sự kiện lớn quốc tế như: Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hợp quốc và Hội nghị Nữ giới Phật giáo Quốc tế Sakyadhita. Hoà thượng Trưởng Ban và các thành viên đã tham gia viết bài tham luận và dự hội thảo tại các nước Phật giáo thân hữu và các trường Đại học Phật giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia, Lào...để trao đổi học thuật. Bên cạnh đó, Bancòn tổ chức các Hội thảo chuyên đề về Giáo dục Phật giáo và Giáo dục Phật giáo Việt Nam tại 4 Học viện như: Hội thảo khoa học Giáo dục Phật giáo Việt Nam: Truyền thống và hiện đại tổ chức tại Học viện Phật giáo Việt tại Hà Nội; Hội thảo Giáo dục Trung cấp Phật Học: Hiện Trạng và Giải Pháp,Tổ chức các khóa Bồi dưỡng Nghiệp vụ Sư phạm ngắn hạn tại học viện Tp. Hồ Chí Minh, Tổ chức Hội thảo về Tư tưởng văn hóa Trần Nhân Tông, hội thảo Ni giới Việt Nam. 2.6. Biên soạn và ấn hành bộ sách Giáo khoa Trung cấp Phật học. Đây làbộ sách Giáo khoa Phật học được Ban Giáo dục Phật giáo chủ trương biên soạn mang tính khoa học có hệ thống dành cho Trung cấp Phật học, làm nền tảng cho Cao đẳng, Cử nhân Phật học. Hiện nay đã ấn hànhrộng rãi cho Tăng Ni sinh 19 đầu sách với số lượng 250.000 cuốn, phân phối cho 35 trường Trung cấp cả nước, trên tổng số 32 đầu sách đang nghiệm thu. Ban cũng đã lên kế hoạch thực hiện sách giảng dạy cho Cao đẳng, Cử nhân Phật học. 2.7. Công tác an sinh xã hội. Ban Giáo dục chú trọng công tác xã hội, từ thiện an sinh xã hội. Các Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, tại Hà Nội và Học viện Nam tông Khmer đã cứu trợ gần 8 tỷ rưỡi đồng trong các đợt thiên tai lũ lụt vừa qua. Đồng thời, các cơ sở Giáo dục dục Phật giáo đã tổ chức hiến máu nhân đạo tại các Học viện, ủng hộ quỹ vaccine, tham gia tình nguyện trực tuyến chống dich Covid-19. Công tác cứu trợ cũng được Ban quan tâm, thể hiện tinh thần từ bi và hiện thực hóa giáo lý nhà Phật. Lãnh đạo Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương do HT. Trưởng ban, TT. Thích Phước Đạt, Thích Nguyên Thành và các thành viên đã đến thăm các cơ sở giáo dục và đào tạo tại miền Trung và chỉ đạo công tác giáo dục, hỷ cúng tịnh tài khắc phục bão lụt với tổng chi phí là hai tỷ đồng. 2.8.Xây dựng mới các cơ sở giáo dục đào tạo. Hiện 4 Học viện Phật giáo Việt Nam đều đã hoàn tất xây dựng giai đoạn 1 đầy đủ quy mô xứng đáng là những Đại học Phật giáo tiêu biểu trong khu vực, diện tích mỗi học viện trên 20 héc ta, đáp ứng nhu cầu tu học nội trú 100%, các tòa nhà Học đường với trang thiết bị học đường hiện đại, Chánh điện, Khu cư xá rộng rãi, tòa nhà thư viện lớn, khu thể thao, khu vườn sinh thái, nhà ăn... Hệ thống 35 trường Trung cấp và Cao đẳng của cả nước rất nhều cơ sở được xây dựng mới và có cơ sở độc lập, không như trước đây Trường Trung cấp Phật học hầu như mượn cơ sở của chùa. 2.9.Hình thành hệ thống thư viện Phật học. Các cơ sở Giáo dục đào tạo của Phật giáo đều chủ trương xây dựng hệ thống thư viện để cung cấp nguồn tri thức cho sinh viên như là vị thầy hướng dẫn thứ hai của công tác học đạo. Các Học viện đều có Thư viện trưởng và đầu tư ngân sách xây dựng tòa Thư viện và sách nghiên cứu và chuyên môn hàng chục tỷ đồng. Hiện nay, mỗi thư viện của mỗi Học viện đã có 30.000 quyển sách, 15.000 tựa sách. Ngoài ra còn có hệ thống sách đọc điện tử Phật học. Các Trường Trung cấp cũng xây dựng Phòng đọc sách cho các Tăng Ni sinh với hàng nghìn đầu sách. 2.10.Tổ chức nội trú cho Tăng Ni sinh tu họctại các cơ sở đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo kiến thức Phật học và đạo hạnh cho các Tăng Ni sinh trong việc tu học, các cơ sở giáo dục đào tạo Phật giáo đã tổ chức lối sống tu học nội trú khép kín cho các Tăng Ni sinh trong thời gian học tập, được miễn phí 100% cho tất cả Tăng Ni sinh nội trú. 3. Phát huy giá trị Giáo dục Phật giáo truyền thống và hướng đến xây dựng nền giáo dục Phật giáo Việt Nam hiện đại phù hợp xu hướng hội nhập. Mục đích và lý tưởng giáo dục Phật giáo của Đức Phật và đạo Phật là giúp con người tự cảm nhận được những thực tế khách quan và tự chấm dứt mọi khổ đau cho chính mình trong cuộc sống. Muốn thành tựu mục đích và lý tưởng của giáo dục Phật giáo, người con Phật phải biết vận dụng tính khế lý, khế cơ phù hợp mọi thời gian, không gian. Tách rời thực tế khách quan của cuộc sống (xã hội) thì nhất định chúng ta khó có thể thành công. Trong ý niệm đó, thiết nghĩ nền giáo dục Phật giáo Việt Nam cần phát huy các nguyên lý giáo dục Phật giáo như đặc trưng của nền giáo dục Phật giáo Việt Nam để định hướng phát triển phù hợp với xu hướng hội nhập, trên nền tảng giáo dục Phật giáo truyền thống kết hợp giáo dục học đường hiện đại như sau: 3.1. Xây dựng chiến lược con người. Hội nhập và phát triển là quy luậttất yếu của lịch sử màbất cứ tổ chức nào cũng phải vận hành. Cơ sở lý luận và thực tiễn để phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam xứng tầm với vị trí và vai trò của nó trong lòng Dân tộc và vươn tầm với thế giới là tập trung đào tạo nguồn nhân lực Tăng Ni và Phật tử tài đức để phụng sự cho Giáo hội và Dân tộc là qua hệ thống Giáo dục và đào tạo Phật giáo. Trên nền tảng thành tựu Giáo dục Phật giáo nói trên, Ban Giáo dục Phật giáo cần xây dựng chiến lược con người như là bệ phóng quyết định thành công vừa mang tính thừa kế, vừa bảo đảm phát triển tương lai mang tính vững bền của kỷ nguyên thời đại 4.0. Nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp giáo dục vẫn là con người. Nói cách khác chất lượng của việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài ở các cơ sở đào tạo phụ thuộc vào cả ba yếu tố cốt lõi: Người học (sinh viên), Người dạy (giảng viên), Người quản trị học đường. 3.1.1. Về người học (sinh viên). Trong hệ thống Giáo dục Phật giáo hiện nay, bao gồm giới đệ tử xuất gia và giới đệ tử tại gia có nhu cầu học tập, nghiên cứu, thực hành giáo lý Phật giáo. Mục đích tối hậu của giáo dục Phật giáo là nhằm giáo dục cho người ta tự biết mình và cuộc đời để tiến đến mục đích giải thoát Niết bàn ngay giữa cuộc đời này. Vì thế, mục tiêu giáo dục Phật giáo không chứa đựng một nội dung bao quát như giáo dục nói chung mà mục tiêu cụ thể, trước mắt đối với người học là khai mở trí tuệ (duy tuệ thị nghiệp). Mặt khác, mục tiêu phải được hiểu là những điểm cuối của cả quá trình mà các đối tượng của giáo dục (người học) phải đến trên một lộ trình dài có nhiều chặng phải vượt qua để đạt được lý tưởng tối hậu, vì vậy giáo dục Phật giáo tùy hoàn cảnh, tùy trình độ từng cá nhân mà có những mục tiêu trước mắt khác nhau. Trong tinh thần đó, giáo dục Phật giáo cần đào tạo ra mẫu người tự hoàn thiện bản thân và có ý thức đóng góp cho đạo Phật, cho Dân tộc với ý nguyện tự nghiên cúu, tự tu tập theo giáo lý nhà Phật, đồng thời biết thích nghi với xã hội, với những kiến thức kỹ năng sống hiện đại, được xem một trong những đặc trưng nổi bật của giáo dục Phật giáo. Nói khác đi, người học không chỉ được xem là đối tượng giáo dục mà còn được nhìn nhận là chủ thể giáo dục trong một môi trường giáo dục học đường Phật giáo thời hiện đại. Do đó, Ban Giáo dục Phật giáo cần có định hướng về nội dung, phương pháp đào tạo có khả năng tối ưu có thể, để phát huy tính tựchủ trong nghiên cứu học tập, đồng thời phát huy mọi khả năng sáng tạo tiềm ẩn sẵn có trong mỗi cá thể giáo dục để nâng cao hiệu quả học tập và nghiên cứu của người học. Thực hiện tốt điều này, ngành Giáo dục Phật giáo sẽ từng bước nâng cao chất lượng đào tạo. Bằng chứng các Học viện đã thay đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang tín chỉ, hay học phần, sinh viên có điều kiện tự chủ đăng ký ngành học, môn học, khung giờ học, giảng viên đứng lớp, tự học, tự thảo luận và tự tích luỹ kiến thức, vai trò người thầy chỉ được xem là người hướng dẫn, là người khai tâm mở trí đối với người học. 3.1.2. Về người dạy (giảng viên). Mỗi khi sinh viên được xem là nhân tố quyết định của việc nâng cao chất lượng giáo dục cùng với sinh viên, thì vấn đề chất lượng đào tạo liên quan đến số lượng và chất lượng giảng viên. Số lượng giảng viên chuyên môn hoá ngành đào tạo phải đáp ứng số lượng sinh viên theo học. Ở một số môn học, nghe giáo sư giỏi giảng trong một hội trường lớn sẽ thu hoạch nhiều hơn là với một giảng viên không có kinh nghiệm trong một phòng học nhỏ. Chúng ta cần có nhiều giảng viên để giảng bài và hướng dẫn thực tập cho sinh viên, nhưng chúng ta cũng cần tập cho sinh viên thói quen tự học, nhất là trong điều kiện chúng ta từng bước áp dụng công nghệ kỹ thuật số trong giảng dạy. Trong xu hướng phát triển, việc xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu có chuyên môn cao là điều tất yếu mang tính chuyên nghiệp của nền giáo dục hiện đại. Thế nên, đối với chương trình đào tạo đại học và sau đại học, Hội đồng điều hành các Học viện cần xây dựng đội ngũ nhà giáo có chuyên môn cao, có uy tín và kinh nghiệm, nhiệt huyết để truyền đạt kỹ năng và kiến thức cho sinh viên và học viên, nghiên cứu sinh. Đối hệ Cao đẳng, Trung cấp Phật học, thực tế có nhiều trường thiếu giảng viên chuyên môn, chính vì vậy Ban Giám hiệu các trường cũng cần chủ động mời các nhà giáo có năng lực chuyên môn và uy tín để đảm trách đúng với từng môn học mà Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương đã biên soạn bộ sách Giáo khoa Trung cấp Phật học. Từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn nói trên, Ban Giáo dục Phật giáo cần định hướng công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo vừa đáp ứng nhu cầu cần và đủ hiện nay, vừa đảm bảo tính kế thừa và lâu dài nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục trong xu hướng hội nhập toàn cầu. Các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, các khoá tu nghiệp ngắn hạn, dài hạn dành cho giảng viên cần được mở nhiều hơn để nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng sư phạm truyền đạt cho người học từ giáo án, giáo trình sách vở truyền thống và cả giáo án, giáo trình điện tử. Nhìn chung, vệc chuân hoá đội ngũ giảng viên cơ hữu và thỉnh giảng sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo Phật giáo hiện nay.