191
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI “VẠN VẬT KẾT NỐI”
Nguyễn Thị Minh Nguyệt*
TÓM TẮT
Thế giới hiện nay đang thu nhỏ dần, con người trên hành tinh dễ tiếp xúc với nhau hơn, những chướng ngại về truyền thông mau chóng được loại bỏ, con người có thể biết những gì xảy ra khắp nơi trên thế giới trong một thời gian ngắn, và vì thế họ có thể tham gia vào một bình diện lớn hơn của cuộc sống thế giới mà họ từng nghĩ trước đây. Đó là một mặt của đời sống hiện đại – thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Vậy đạo đức Phật giáo trong thời đại “Vạn vật kết nối” hiện nay có biến đổi cùng thời cuộc?
- Làm rõ khái niệm “Vạn vật kết nối”
- Những đặc điểm cơ bản của Đạo đức Phật giáo
- Những thay đổi tích cực tới Đạo đức Phật giáo hiện nay
- Ảnh hưởng tiêu cực tới Đạo đức Phật giáo. Qua đó, đưa ra một số giải pháp nhằm giảm thiểu những tiêu cực tới Đạo đức Phật giáo.
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và khế cơ. Khế lý là nhấn mạnh về tính tư tướng. Khế cơ là nhấn mạnh về tính lịch sử. Nhờ khế lý, tư tưởng luôn phong phú, thâm diệu mà mình vẫn là mình.
*. Th.S., Trường Đại Học Phòng Cháy Chữa Cháy, Việt Nam.
Do khế cơ nên mọi hình thái sinh hoạt, thể hiện, truyền bá luôn đa dạng, gắn bó mà không hề mất gốc. Giáo sư D.T.Suzuki (1870
-1966) nhà Phật học người Nhật nổi tiếng, trong tác phẨm “Nghiên cứu kinh Lăng Già” nơi phần bàn về: “Tầm cỡ của Phật giáo Đại thừa” đã viết: “Chẳng hạn, kinh Pháp Hoa đánh dấu thời kỳ lịch sử Phật giáo khi Đức Thích Ca Mâu Ni không còn được xem là một nhân vật lịch sử phải chịu số phận của mọi chúng sanh giả tạm, vì Ngài không còn là Đức Phật mang tính chất người mà chính là một vị sống bằng sự vĩnh cửu đối với lợi ích của mọi chúng sanh”. Do đó, có thể nói, trong thời đại “vạn vật kết nối”, con người được gần nhau hơn… Song chúng ta vẫn có thể khẳng định, đạo đức Phật giáo không thay đổi về nội dung cũng như tầm ảnh hưởng của nó. Vấn đề đặt ra, chúng ta cần phải làm gì để đạo đức Phật giáo luôn có ảnh hưởng tích cực đến đời sống con người, đặc biệt là trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của những phần tử có ý đồ phá hoại những tư tưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống nhân dân.
***
Thời đại thế giới phẳng hiện nay, mọi khoảng cách dường như đã bị xóa nhòa, con người trên hành tinh dễ tiếp xúc với nhau hơn, những chướng ngại về truyền thông mau chóng được loại bỏ, con người có thể biết những gì xảy ra khắp nơi trên thế giới trong một thời gian ngắn, và vì thế họ có thể tham gia vào một bình diện lớn hơn của cuộc sống thế giới mà họ từng nghĩ trước đây. Đó là một mặt của đời sống hiện đại – thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Vậy đạo đức Phật giáo trong thời đại “Vạn vật kết nối” hiện nay có biến đổi cùng thời cuộc?
-
- “VẠN VẬT KẾT NỐI” LÀ GÌ?
Theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới mang đến cái nhìn Cách mạng Công nghiệp
4.0 như sau: “Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3
sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học”. Nối tiếp từ định nghĩa của Klaus Schwab, Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý. Trong đó, những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) được nhắc đến lần đầu tiên năm 1999 bởi Kevin Ashton, nhà đồng sáng lập và giám đốc điều hành của Auto-ID Center của MIT. IoT (internet of things) hay còn được gọi dưới nhiều cái tên khác như: Mạng lưới kết nối vạn vật Internet, mạng lưới thiết bị kết nối Internet… viết tắt tiếng Anh là IoT. IoT là một kịch bản về một thế giới kết nối. Thế giới thực, thế giới ảo và các thiết bị bao gồm cả con người được kết nối với nhau thông qua một mã định danh của riêng mình tạo nên một không gian đa chiều. Với sự ra đời và phát triển của cách mạng công nghệ 4.0 và “Vạn vật kết nối” cũng tác động không nhỏ tới Phật giáo và việc truyền giảng đạo đức Phật giáo tới mỗi Phật tử và người dân.
-
- NHỮNG ĐẶC TRƯNG TIÊU BIỂU CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
Đạo Phật là người bạn đồng hành cùng nhân loại, đối tượng trung tâm của đạo Phật là con người, mục đích của đạo Phật là xây dựng thế giới an lạc tại thế giới này. Cũng như tất cả các ngành khoa học chân chính trên thế giới, Phật giáo nhận thấy rằng cải tạo xã hội không gì khác hơn là phải cải tạo từ mỗi cá nhân, những phần tử cấu tạo nên xã hội đó. Một khi những các nhân trong đó được hoàn thiện thì xã hội tự nhiên trở nên thanh bình. Chúng ta có thể tìm hiểu một số giáo lý căn bản của Phật giáo trong vấn đề cải thiện cá nhân và hoàn cảnh xã hội.
Đối với cá nhân: Đạo Phật đã tạo dựng cho các tín đồ Phật tử một niềm tin vào luật nhân quả, vào vô thường, vô ngã… Niềm tin ấy sẽ chi phối ý thức đạo đức của con người, không chỉ ảnh hưởng đối với Phật tử mà còn lan tỏa và tác động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó tạo ra cho con người một sức mạnh tinh thần để vượt lên cám dỗ vật chất, những trắc trở trong cuộc sống, hướng họ vào một lý tưởng tốt đẹp, vị tha. Tình thương và lòng nhân ái có thể giúp con người hạn chế bớt tính ích kỷ, từ bỏ tham, sân, si cốt lõi
của những thói xấu, những mâu thuẫn, xung đột và bạo hành trong xã hội. Với thuyết nhân quả, nghiệp báo, Phật giáo đã nhấn mạnh rằng, chính con người mới có quyết định sau cùng và quan trọng nhất trong công cuộc cải tạo và xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Bởi Đức Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Nghĩa là ai cũng có khả năng hướng thiện, khả năng vươn tới đỉnh cao của sự thánh thiện, giải thoát.
Với triết lý từ bi, hỷ xả khuyến khích con người hướng thiện, Phật giáo đã đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức con người và hướng tới một xã hội bác ái, góp phần tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế đã chứng minh Phật giáo tích cực tham gia các hoạt động từ thiện như: xây dựng trung tâm nuôi dưỡng những trẻ mồ côi; thành lập viện dưỡng lão, chăm sóc, nuôi dưỡng người già cô đơn không nơi nương tựa, cứu trợ người dân vùng thiên tai, mở lớp tình thương dạy chữ cho các cháu không có điều kiện đến trường, lập phòng khám từ thiện, tổ chức cai nghiện, giúp đỡ những mảnh đời éo le tái hòa nhập cuộc sống… Nói về những điển hình tín đồ Phật tử theo đạo Phật đã làm cho xã hội thì rất nhiều. Chính việc làm cụ thể đó kêu gọi và vận động hàng trăm nghìn tấm lòng từ bi của mọi người cùng đoàn kết giúp đỡ những cuộc đời không may mắn. Sức lan tỏa đạo đức và triết lý Phật giáo một phần chủ yếu là do các tăng ni, Phật tử có nhân cách đạo đức thực hiện. Chính nhân cách đó đã cảm hóa con người góp phần xây dựng những giá trị đạo đức và lối sống cho con người Việt Nam.
Phật giáo còn có con đường “năm giới”. Giữ năm giới đó có thể giải quyết được những vấn đề của thời đại hôm nay. Tại sao lại như vậy? Bởi giữ giới là không làm những điều xấu ác chưa đủ mà phải thực hành những điều thiện lành. Chẳng hạn, không sát sinh mà phải phóng sanh phải tôn trọng và bảo vệ mạng sống của mọi loài; không trộm cắp mà phải bố thí; không tà dâm mà bảo vệ đời sống gia đình, trinh tiết của người; không nói những lời thô ác mà nói những lời ái ngữ, hòa nhã và đem lại lợi ích; không uống rượu, tránh xa các chất kích thích, độc tố như rượu, thuốc lá và các chất gây ng- hiện khác, mà phải học tập để phát triển trí tuệ rồi giảng dạy lại cho người… Như vậy, “năm giới” là nguyên lý đạo đức tối thiểu của một đời sống trọn vẹn và tự nguyện. Trong năm giới đã biểu thị đầy đủ đức tính từ bi, tôn trọng sự sống, hạnh phúc, phẨm hạnh của người
cũng như giữ được sự trung tín, thành thật với nhau và quan trọng là mình phải giữ được sự bình tĩnh, trí tuệ, bởi chỉ có trí tuệ mới có những hành động đúng. Thực hành năm giới không những hoàn thiện tư cách đạo đức cá nhân mà còn làm cho xã hội được yên bình hạnh phúc… Đây chính là điều đặc biệt chỉ riêng đạo đức Phật giáo mới thể hiện một cách trọn vẹn trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay. Và đây cũng chính là lý do mà tổ chức Liên Hiệp Quốc đã lấy “năm giới” trong Phật giáo làm năm yếu tố hòa bình của thế giới.
Đối với xã hội: Phật giáo không những đề cao tự tu xây dựng đạo đức cá nhân và tiến lên bước cao hơn là xây dựng cải tạo xã hội, bởi mục đích của Phật giáo là xây dựng một xã hội an bình, hạnh phúc. Ngày nay, nền khoa học đang trên đà phát triển, con người có thể khám phá ta những điều kỳ diệu phát minh ra những thành tự khoa học vĩ đại. Nhưng con ngươi cũng đang phải đối mặt với bao vấn đề bất an như: chiến tranh, khủng bố, phân biệt sắc tộc, tôn giáo… Các chuẨn mực, sự gắn bó với cộng đồng, đời sống thủy chung, nhân ái, quý trọng nghĩa tình, luân lý truyền thống của dân tộc đang dần bị mai một. Bởi thế mối quan hệ tốt đẹp, hòa hợp trong cuộc sống là một nhu cầu, cũng là một yếu tố của hạnh phúc. Để đạt được mục đích cao đẹp trên, Đức Phật đã chỉ dạy cần phải thực hành theo sáu pháp hòa kính “Lục hòa”: Thân hòa đồng trụ; khẨu hòa vô tránh; ý hòa đồng duyệt; giới hòa đồng tu; kiến hòa đồng giải; đoàn kết trong tình thần, tương thân, tương ái, là sáu phép “hòa ái” nhằm góp phần xây dựng một gia đình hạnh phúc; một xã hội bình đẳng, tự do. Chúng ta có thể hiểu: “Thân hòa đồng trụ” là cùng ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, giúp đỡ nhan, cùng ăn, cùng ngủ, cùng học, cùng hành; “KhẨu hòa vô tránh” Phật giáo chủ trương mọi người không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau khi ở bên cạnh nhau. Muốn làm được điều đó thì lời nói phải được giữ ôn hòa, nhã nhặn. Có người thân hòa mà khẨu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm chọc, hạnh hỏi nhau từng tiếng một, dễ sinh ra mâu thuẫn; “Ý hòa đồng duyệt”: ý là quan trọng nhất, vì đây sẽ dẫn đến khẨu và thân. Cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể mỗi người cần giữ gìn ý cho trong sạch. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói sẽ giữ được hòa khí. Nếu không thì ngược lại; “Giới hòa đồng tu”: trong một tổ chức đoàn thể cần có một trật tự, kỷ luật, uy định rõ ràng. Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị, cấp bậc tu hành của mình mà
thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Như vậy, trong một đoàn thể, dù đạo hay đời nếu không cùng nhau giữ gìn giới điều, kỷ luật, quy tắc thì chúng ta không sống chung với nhau được. Phật tử muốn hòa hợp cùng nhay để tu tập thì mỗi người cần phải giữ gìn giới luật như nhau; “Kiến hòa đồng giải”: sống chung, mỗi người hiểu biết, khám phá được điều gì thì phải giãi bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình độ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tình thần bình đẳng, mới để giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể; “Lợi hòa đồng quân”: Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng hay giành nhiều về mình. Qua đó cho thấy, “Lục hòa” là một trong những khuôn mẫu góp phần xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ, là chất kích thích tố phát khỏi tinh thần đoàn kết, là yếu tố cần thiết để đưa đến thành công trong thực hiện các phong trào xây dựng xã hội giàu mạnh, bình yên. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Có thể khẳng định toàn bộ giáo lý của Phật giáo là con đường đạo đức dành cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội, không chỉ đơn thần dạy “Không làm điều ác”, mà còn luôn khuyến khích mọi người “Tích cực hành thiện”. Đó phải tạo cho chúng sinh một môi trường sống an lành, một đời sống bình yên hạnh phúc ngay trong thế giới hiện hữu này. Trên đây là những đặc trưng tiêu biểu của đạo đức Phật giáo, có giá trị nhân văn, nhân bản, mong rằng những nền tảng đạo đức này luôn được thể nhập và lan tỏa vào trong đời sống thực tiễn để mỗi chúng ta có thể thiết lập một đời sống bình an nội tại, luôn hạnh phúc mỉm cười.
-
- NHỮNG THAY ĐỔI TÍCH CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI “VẠN VẬT KẾT NỐI”
Trong nâng cao trình độ Tăng Ni, chức sắc, tín đồ: Khi đề cập đến đạo đức Phật giáo trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức của con người Việt Nam hiện nay, không thể không xét đến đối tượng là những nhà tu hành, trí thức Phật giáo những người được trực tiếp tiếp xúc với kinh sách, am hiểu mục đích, giáo lý nhà Phật. Ngày nay, trình độ của các Tăng, Ni, các chức sắc, tín đồ được nâng cao. Qua gần 40 năm phát triển và trưởng thành, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã mở các trường giáo dục, đào tạo tăng ni thế hệ trẻ ở bậc đại học và sau đại học, đáp ứng yêu cầu của giáo hội, phục vụ lợi ích dân
sinh, phục vụ đạo pháp và dân tộc. Các trường lớp đào tạo Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay tổ chức khá chặt chẽ và bài bản, quy định cụ thể đến từng cấp học (gồm 3 cấp: Sơ cấp Phật học, Trung cấp Phật học và Đại học Phật học), từng nội dung cụ thể cho mỗi cấp. Qua đó, sự giác ngộ về giáo lý và văn hoá sẽ chi phối suy nghĩ và hành động của tầng lớp này, hướng họ sống theo những lý tưởng mà Phật giáo đề ra.
Tuyên truyền đạo đức Phật giáo tới người dân: Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, vạn vật được kết nối, phương thức truyền giảng Phật giáo, nâng cao tầm ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo tới đời sống xã hội được mở rộng. Nó không chỉ bó hẹp trong những lễ nghi, những bài giảng trong nhà chùa như trước. Giờ đây, để đạo đức Phật giáo tiếp cận được với những người dân, đặc biệt là các tín đồ, thông qua đặc san văn hóa Phật giáo và kênh tivi Phật giáo. Đặc san Phật giáo như Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đặc san Hoa Đàm, đặc san Hoa Sen… không chỉ ấn hành theo định kỳ hàng tháng, quý mà còn được công khai trên các trang Webside trên internet: http://phatgiao.org.vn, https:// giacngo.vn, http://dacsanhoadam.com/, https://thuvienhoasen. org ... Thông qua các sách báo Phật giáo đã được ban hành trên toàn quốc: “Nhân Gian Hữu Tình”, “Buông Xả Phiền Não” của Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm, kinh Pháp Cú với 423 lời vàng của Đức Phật được xem là quyển kinh Phật bỏ túi, kinh gối đầu giường của người tu học Phật… đặc biệt, ngày 28/3/2018, Trung ương Giáo hội đã ra mắt kênh Truyền hình trực tuyến PHẬT SỰ ONLINE TV do Thượng tọa Thích Minh Nhẫn làm Tổng Biên tập. Thông qua Truyền thông để đẨy mạnh việc phát triển Hoằng pháp, Giáo dục, công tác Từ thiện, an sinh xã hội… Phát huy hình ảnh tốt đẹp của người con Phật trong thời đại công nghiệp 4.0.
Tác động đến điều chỉnh hành vi của người dân trong xã hội: Trong thời đại “vạn vật kết nối” hiện nay, hình thái sinh hoạt của Phật giáo đã có sự thay đổi. Hành vi đạo đức của những người có tín ngưỡng tôn giáo bị chi phối bởi niềm tin tôn giáo, khiến con người có thái độ thành kính, thực hiện một cách tự giác, nghiêm túc những điều Phật dạy trong đời sống. Hiện nay, ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các thành phố lớn, trong các ngày lễ của Phật giáo, người đi chùa rất đông. Những người đến chùa thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi,
không chỉ là các cụ già mà còn có đông đảo những thanh thiếu niên, sinh viên, tri thức, những người buôn bán và cả cán bộ, công nhân, viên chức… Đa số người dân hiện nay tuy mức độ khác nhau nhưng đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Những triết lý cao siêu, bác học của Phật giáo hầu như chỉ ảnh hưởng tới tầng lớp trí thức Phật giáo, những nhà tu hành, còn với một bộ phận dân chúng, họ đi chùa vì thấy những lời dạy của Phạt giáo phù hợp với đạo đức xã hội, và một phần còn có tâm lý “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Dù mức độ tác động của giáo lý Phật giáo đối với xã hội rất khác nhau nhưng thông qua lễ bái, sinh hoạt tôn giáo, con người muốn theo các chuẨn mực của đạo đức Phật giáo. Đây chính là dịp để con người tĩnh tâm, hoàn thiện bản thân sau những lo toan tính toán đời thường. Đồng thời, cũng không thể phủ nhận, hàng năm các lễ hội Phật giáo thu hút không chỉ Phật tử mà còn cả những người ngoài đạo. Điều này cũng có tác dụng tăng cường sự hiểu biết và quan hệ lương-giáo, thắt chặt tình cảm cộng đồng, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc… Bên cạnh đó, Người dân, tín đồ theo Phật giáo, muốn tìm hiểu về đạo đức Phật giáo, muốn học tập về “ngũ giới”, “lục hòa” không nhất thiết phải đến chùa mới học được. Những phương tiện truyền thông như báo chí, đặc san, websites, tivi, DVDs, youtube, live stream là những phương tiện rất hữu hiệu tiếp cận đến quần chúng. GHPGVN đã đầu tư nhiều người thành thạo về kỹ thuật chuyên môn và khả năng để khai thác và tận dụng được các phương tiện truyền thông mục đích là để chuyển tải những lời hay ý đẹp, những liệu chất cần thiết mang tính Phật pháp đến với người đang cần. Có những nơi xa xôi, những người ít tiếp xúc được với chùa chiền và chư Tăng phù hợp theo nhu cầu của họ thì vai trò truyền thông lại càng có tác dụng. Qua đó, ta thấy những lý tưởng cao đẹp của nhà Phật, triết lý sống giản dị, đạo đức của đạo Phật đã và đang hấp dẫn con người Việt Nam cả trong quá khứ cũng như trong giai đoạn hiện nay.
Với nhiều biện pháp, cách thức tuyên truyền, lan tỏa những đạo đức tốt đẹp của Phật giáo tới mỗi Tăng Ni, Phật tử, đã tác động tích cực, hướng con người tới thiện. Từ xưa đến nay, quan niệm ‘bố thí cho bá tánh là cúng dường cho chư Phật’ được thể hiện rõ nét thông qua các hoạt động từ thiện xã hội của nhiều chùa chiền, tự viện Phật giáo. Với tinh thần “trải rộng tấm lòng”, hiện nay, Giáo hội Phật giáo có 165 lớp học tình thương và 16 cơ sở nuôi dạy trẻ bán trú, nhà
nuôi trẻ mồ côi, khuyết tật. Cả nước hiện có 6.467 em theo học các lớp tình thương này. Tuy nhiên, lực lượng giáo viên do tăng, ni, Phật tử đảm trách còn hạn chế. Để giải quyết khó khăn này, Ban Từ thiện xã hội Trung ương đã tổ chức khóa bồi dưỡng nuôi dạy trẻ cho 92 tăng, ni, Phật tử học viên. Trên tinh thần trách nhiệm của người con Phật, các lớp học tình thương, các trường nuôi dạy trẻ khuyết tật, mồ côi..., trong hệ thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều hoạt động ổn định, có kết quả như: Trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật, trẻ bị nhiễm HIV; Trung tâm hỗ trợ người bị nhiễm HIV/AIDS chùa Pháp Vân, chùa Thanh Am (Hà Nội); Trường nuôi dạy trẻ và khuyết tật, người già neo đơn tại Bắc Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hòa, Bình Dương, Quảng Trị, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang, Tây Ninh..., đã nuôi dưỡng gần 3.000 trẻ em mồ côi, cơ nhỡ và khuyết tật; chăm sóc hơn 1.500 cụ già neo đơn.
Ban Từ thiện xã hội Trung ương cũng phối hợp với Trường Đào tạo cán bộ y tế trung cấp của TP. Hồ Chí Minh mở lớp cán bộ y tế sơ cấp thời gian học 1 năm cho 250 Tăng, Ni, Phật tử cả nước theo học và đào tạo 98 lương y Tuệ Tĩnh đường. Điều đó tăng cường hiệu năng hoạt động về y tế và từ thiện xã hội, nhằm góp phần chia sẻ gánh nặng cho xã hội và nhân dân trên tinh thần từ bi của Phật giáo.
Bằng tinh thần từ bi cứu khổ của Phật giáo và đạo lý “bầu ơi thương lấy bí cùng” của dân tộc Việt Nam, các Tăng, Ni, Phật tử cả nước đã nỗ lực: cứu trợ đồng bào bị lũ lụt tàn phá thuộc các tỉnh miền Bắc, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long; thăm và tặng quà cho đồng bào dân tộc các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc; cứu trợ những nạn nhân động đất ở Đông Nam Á, sóng thần và động đất tại Nhật Bản; ủng hộ nhân dân Cuba anh em; ủng hộ nạn nhân nhiễm chất phóng xạ ở chernobyl, Liên Xô (cũ); xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương; ủng hộ chiến sĩ biên phòng, hải đảo; thăm viếng thương bệnh binh và bệnh nhân nghèo khó tại các bệnh viện, trại tâm thần, nhà dưỡng lão; chữa trị cho bệnh nhân nhiễm HIV/ AIDS; xây giếng, mổ mắt, tặng xe lăn và xe đạp, tặng học bổng cho người nghèo; xây cầu bê tông, đắp đường giao thông nông thôn; hiến máu nhân đạo, đóng góp quỹ vì người nghèo, học sinh hiếu học, giúp phụ nữ nghèo vượt khó; mổ trị bệnh tim nhi; phát quà Tết, quà Trung thu cho các cháu thiếu nhi; cung cấp bữa ăn từ thiện cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện, phòng khám đa khoa…).
Trong 30 năm (1981 - 2011) hoạt động từ thiện thu được kết quả to lớn, ước đạt 2.020 tỉ đồng.
Giáo hội Phật giáo đã có sự tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; góp phần ổn định đời sống tâm linh, tâm lý yên tâm, an lạc cho người dân để họ xây dựng và chăm lo cho đời sống kinh tế gia đình. Phật tử các cấp tích cực tuyên truyền nhằm hạn chế việc chi phí cho các nghi lễ tốn kém (như cúng giỗ, giết trâu bò để cúng Giàng, cúng thần linh, cúng ma…) để xây dựng đời sống kinh tế, khắc phục và vượt qua các khó khăn trước mắt, ổn định sản xuất và phát triển kinh tế lâu dài. Phật giáo dạy rằng: khi có tiền thì mỗi gia đình, cá nhân phải biết chi tiêu đời sống hằng ngày, một phần tiết kiệm đề phòng bất trắc hoặc tình huống bất thường xảy ra và một phần vốn để kinh doanh, đầu tư sinh lãi. Các Tăng, Ni, Phật tử động viên nhân dân đoàn kết giúp đỡ nhau. Ở nhiều nơi, bà con có các chương trình tương trợ vốn, hùn vốn, giúp đỡ nhau trong sản xuất với sự tham giacủa các Phật tử. Phật giáo đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội có những thay đổi nhất định, không ít trường hợp người dân thoát nghèo, trong đó có một bộ phận vươn lên làm ăn no đủ.
-
- NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA “VẠN VẬT KẾT NỐI” TỚI CHUẨN MỰC VÀ HÀNH VI ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO HIỆN NAY
Hiện nay, trong thời đại “vạn vật kết nối”, với nhiều cách tiếp cận tới các chuẨn mực, hành vi đạo đức khác nhau cũng có những tác động tiêu cực. Bên cạnh những bài viết chính thống thể hiện những ý tưởng tốt đẹp của đạo đức Phật giáo, còn có những bài thuyết trình trên báo chí, đặc san, websites, tivi, DVDs, youtube, live stream … gây ý thức phản cảm, đi ngược lại đạo đức Phật giáo của chúng ta. Ở Việt Nam lâu nay, mê tín dị đoan thể hiện rất đa dạng, như: lễ bái, cúng tế, cầu xin; xem tướng số, bói toán; chữa bệnh bằng mẹo hay những kiêng cữ phản khoa học… Bên hành vi mê tín dị đoan ra đời trước đây, lại có hành vi mới xuất hiện và được coi là biến thể phù hợp với thời đại. Thí dụ, những đồ cúng khá hiện đại như hàng mã là đô-la, nhà lầu, xe ô-tô, du thuyền, điện thoại… hoặc xem bói qua internet, thậm chí có một số “thầy” còn bói qua livestream (dùng webcam truyền âm thanh và hình ảnh trực tiếp đến người dùng)…
Cúng lễ là nhu cầu tâm linh chính đáng nếu được thực hiện đúng
nghi thức, nhưng một số người lại cầu cúng vượt quá giới hạn sinh hoạt tín ngưỡng bình thường. Có thể nói cầu cúng, lễ bái “xin được thăng quan, tiến chức”, và cầu mong làm ăn phát đạt - một nhu cầu bình thường, đôi khi cũng được thực hành một cách mê muội. Có những cán bộ thuộc cơ quan nhà nước bỏ cả giờ làm việc để đi lẫ chùa, như trong tháng 2/2018, 12 cán bộ Kho bạc Nhà nước TP. Nam Định đi lễ đền Trần trong giờ hành chính, đã được lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội cũng như dư luận địa phương, gây ảnh hưởng xấu tới các cán bộ nhà nước cũng như nhân dân địa phương. Khi niềm tin đặt lầm chỗ vào với yếu tố siêu nhiên, kỳ bí, một số người không tiếc tiền bạc tới đền, chùa xin “quẻ”, tổ chức lễ cầu tài, cầu lộc, cầu phúc rình rang, cung tiến tiền triệu, thậm chí cả hàng chục triệu đồng đã không còn là chuyện hiếm. Có gia đình còn xây am, điện thờ đồ sộ, hằng ngày hương khói, tụng kinh, gõ mõ cầu xin chức quyền. Thậm chí, không chỉ cá nhân mà một số cơ quan còn tổ chức đi lễ tập thể, đi nhiều lần trong năm. Một số tập tục tốt đẹp bị những cá nhân mê tín biến tướng thành cơ hội cầu lộc, cầu tiền bằng những hành vi phản cảm. Chẳng hạn các năm gần đây, “xin ấn đền Trần” khiến nhiều người ngán ngẨm vì chen lấn, xô đẨy chỉ để “cướp” bằng được “ấn”, mặc dù có khi chính họ cũng không hiểu bản chất của việc ban “ấn” là ban cho con cháu cái phúc, dạy con cháu, bách gia trăm họ phải biết giữ gìn phẨm chất đạo đức, tích phúc thật tốt, phúc đức càng dày thì được hưởng lộc càng bền vững. Tuy nhiên, một số người vẫn lầm tưởng rằng xin “ấn” để cầu thăng quan, tiến chức cho nên dẫn đến những cảnh tượng phản cảm mà báo chí đã phản ánh. Những thí dụ khá phổ biến đó, đặt trong sự so sánh với lĩnh vực văn hóa tinh thần, đã trở thành những hiện tượng phản văn hóa, đối nghịch với những giá trị của xã hội.
“Dâng sao giải hạn” cũng là việc được nhiều người thực hành trong những ngày đầu năm, nhất là người được “thầy” phán là “căn cao quả nặng”. “Dâng sao giải hạn” bắt nguồn từ tập tục cầu bình an thường diễn ra vào đầu năm mới ở phạm vi gia đình, mong muốn con cái, cháu chắt sẽ được yên ổn, khỏe mạnh trong năm. Nhà chùa cũng chỉ cúng sao giải hạn như một việc làm giúp giải tỏa tâm lý lo sợ, mong muốn tai qua nạn khỏi thông qua các nghi lễ đơn giản, đúng nghi thức. Tuy nhiên, không ít cá nhân lại tổ chức “dâng sao giải hạn” phức tạp, gây lãng phí. Nhiều người còn lợi dụng việc này để biến thành cúng lễ với quy mô lớn nhằm cầu xin tai qua nạn khỏi.
Người có tiền thì sẵn sàng thuê cả gian điện với giá hàng chục triệu đồng, mời riêng pháp sư đến “giải hạn”. Thậm chí, một số người còn tìm đến dịch vụ “giải sao trọn gói” ở một số chùa. Trong khi đó, cảnh báo hiện tượng này, Hòa thượng Thích Thanh Tứ (1927 - 2011), nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam, từng cho biết, kinh Phật không đề cập việc “cúng sao” có thể “giải được hạn”. Bởi theo kinh Phật, không có thần thánh nào gây vận hạn cho con người, tất cả là do con người tạo ra, gieo nhân nào sẽ gặp quả nấy, muốn được phúc thì phải làm phúc, không phải cầu xin là được.
Bên các hình thức mê tín dị đoan gây lãng phí về tiền bạc và thời gian, việc tin tưởng mù quáng vào bói toán, nghe theo lời “thầy” phán còn gây nhiều tác hại và nguy hiểm. Ðã có một số “thầy bói” bị vạch trần thủ đoạn như: tạo tin đồn, cho đệ tử quảng cáo, hẹn “khách hàng” lần sau mới gặp để có thời gian tìm hiểu, điều tra… Cũng có người hành nghề bói toán “phán” tùy tiện gây nhiều hệ lụy nghiêm trọng, thậm chí gây nên những cái chết đau lòng. Cuối tháng 11-2017, vụ án cháu bé 20 ngày tuổi ở Thanh Hóa bị sát hại mà nghi phạm chính là bà nội của cháu đã khai tại cơ quan điều tra là lên kế hoạch sát hại cháu mình do mê muội tin vào lời thầy bói phán rằng cháu gái của bà là “yêu nghiệt” trong gia đình, nếu cháu sống thì bà chết, và ngược lại. Năm 2015, một vụ án giết người ở TP Hồ Chí Minh cũng khiến dư luận rúng động bởi hung thủ chính là mẹ của nạn nhân. Trong sự việc đáng tiếc này, người mẹ chủ mưu giết con chỉ vì con bị bệnh chữa nhiều nơi không khỏi và tin điều “thầy” cho rằng con bị “thánh nhập”. Chị mời người tới tụng kinh, làm lễ hồi sinh, “nhập thánh” cho con bằng cách dùng sợi dây quấn quanh cổ và siết mạnh, khiến con chết…
Ở đây, nếu như các chùa biết tổ chức thiết thực, rất lợi lạc phù hợp cho họ, nhất là về các môn ngoại ngữ, vi tính, việt văn, và các khóa tu trẻ, các buổi chia sẻ thảo luận, tương tác… có sức thu hút thì họ sẽ tìm đến chùa vừa học được Phật Pháp, có hành trang đạo đức, tâm linh vừa học thêm những kiến thức kỹ năng cần thiết cho các cấp bậc học cao hơn và nghề nghiệp cuộc sống. Trong thời đại ngày nay chúng ta cần khai thác và phát huy sức mạnh của truyền thông trong sinh hoạt Phật sự và hoằng pháp để biểu dương cái hay cái đẹp cho xã hội nhân rộng hơn, để bài trừ những xấu xa tệ nạn,
để đưa những thông tin cần thiết đến cho mọi người, để quy hướng tâm trí con người đến những nơi cần cứu giúp, quan tâm,…
-
- MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM LAN TỎA NHỮNG ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP CỦA PHẬT GIÁO, GIẢM TƯ TƯỞNG CỰC ĐOAN TRONG XÃ HỘI
Khi nghiên cứu Phật giáo, ta nhận thấy một điều thú vị: Phật giáo, đạo đức Phật giáo đã ăn sâu vào trong phong tục tập quán của người Việt Nam, trở thành một phần trong đời sống của người Việt. Khi Phật giáo du nhập, các phong tục tập quán dân gian và văn hóa Phật giáo có sự hỗn dung, vay mượn lẫn nhau. Trong các chùa, dưới các cây cổ thụ đều đặt bát hương thờ cả những tảng đá lớn hoặc những con vật bằng đá như nghê đá… Bên cạnh đó, Phật giáo cũng tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội của người Việt như hệ thống vật thờ cúng, tục thờ cúng thành hoàng làng, tổ tiên, lễ hội đình chùa; tục ăn chay, tục đi lễ chùa vào các ngày rằm, mùng Một… Văn hóa Phật giáo còn mang lại cho người dân Việt một lối sống dung dị, lấy triết lý nhân sinh từ bi của Phật giáo và tư tưởng nhân ái cao cả của dân tộc làm định hướng cho hoạt động thực tiễn của mình. Những tư tưởng “Đại trí”, “Đại bi” của Phật giáo chính là ngọn suối nguồn để tập hợp và đoàn kết toàn dân làm nên những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Triết lý về Phật tính bình đẳng nơi chúng sinh đã hình thành lối sống từ bi, nhân bản sâu sắc, có giá trị tích cực đối với cuộc sống nhân dân. Đó là cách sống “vô ngã vị tha” (đối lập với tư tưởng “vị kỷ, phi nhân”); Đó là cách cư xử yêu thưởng, tình nhân ái bao trùm mọi hiện hữu; là tinh thần bình đẳng bác ái, là đức hiếu sinh, là tinh thần cứu khổ cứu nạn… có thể thấy giữa tinh thần nhân ái, đức tính thương người của người Việt và tư tưởng nhân sinh từ bi của Thiền tông không những không phải là sự đối lập mà trái lại, tư tưởng từ bi và tư tưởng nhân ái Việt luôn cộng hưởng tích cực. Những biến đổi xã hội hiện nay đã khiến các giá trị bị tác động không nhỏ: sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, xuất hiện lối sống thuần túy chay theo lợi ích vật chất, lãng quên giá trị tinh thần, chạy theo danh vọng tiền tài mà quên lãng việc hoàn thiện nhân cách… Đạo đức Phật giáo trong trường hợp này đóng vai trò không kém phần quan trọng đến việc hình thành đạo đức con người, những giá trị chuẨn mực đạo đức đã đi vào cuộc sống và được duy trì cho đến tận ngày nay.
Để đạo đức Phật giáo, giúp cho con người chế ngự được tính
ích kỷ, thể hiện tình thương bằng sự giúp đỡ tận tâm tận lực, đùm bọc lẫn nhau không vụ lợi, không chờ sự đền đáp; để có thể kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống đạo đức dân tộc và đạo đức Phật giáo trong thời đại ngày nay. Tôi xin đưa ra một số ý kiến sau:
Trong công tác từ thiện, Giáo hội cần nhân rộng biện pháp từ thiện “cho cần câu thay vì cho con cá” sẽ thiết thực và bền vững hơn so với đem quà cứu trợ (tiền, lương thực, quần áo…) đến cho người nghèo, hoặc người dân gặp thiên tai. Một số địa phương đã làm tốt được biện pháp này như: Ở Tây Nguyên, nhà chùa tổ chức cho người dân canh tác cà phê và trả lương theo đợt để khuyến khích người dân tham gia sản xuất, có vốn tích lũy. Đồng bào theo Phật giáo Nam tông Khmer được nhà sư phổ biến khoa học kỹ thuật canh tác mới, thay đổi mùa vụ cây trồng tăng năng suất lao động. Ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, người dân trong Hội Vãi hoặc trong đạo tràng hùn vốn giúp nhau sản xuất… Đặc biệt, trong thời đại “vạn vật kết nối” hiện nay, có thể dễ dàng liên kết giữa Giáo hội Phật giáo với các tổ chức chính quyền, giữa nhà chùa ở các địa phương, giữa các Tăng Ni, Phật tử, điều này chúng ta nên tận dụng triển khai. Qua đó, đưa chương trình, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, lập một quỹ riêng cho công tác từ thiện của Giáo hội để vận động được sức mạnh của tập thể tăng, ni, Phật tử.
Trong công tác tuyên truyền, vận động thực hành đạo đức: Bên cạnh những bài giảng tại chùa, tạp chí, tập san, cần triệt để tuyên truyền thông qua các trang Websites, Youtube, kênh Tivi, livestream… Nội dung phong phú phù hợp để dễ dàng tiếp cận tới các chức sắc, chức việc, tín đồ; tùy theo tình hình thực tế cũng như độ tuổi, giới tính. Làm được điều này, Giáo hội cần đầu tư đào tạo nhiều người thành thạo về kỹ thuật chuyên môn và khả năng để khai thác và tận dụng được các phương tiện truyền thông mục đích là để chuyển tải những lời hay ý đẹp, những liệu chất cần thiết mang tính Phật Pháp đến với người đang cần. Trên các phương tiện thông tin truyền thông, cần biểu dương những tấm gương sáng, những tấm lòng cao cả, hướng thiện qua những trang tin phóng sự, những bài viết ngưới tốt việc tốt hoặc cũng có thể là một bộ phim truyền hình mang ý nghĩa nhân văn… Đối với những chức sắc, Tăng Ni lợi dụng Phật giáo làm điều xấu, gây hoang mang cho chúng sinh, Giáo hội cần thẳng thắn chỉ ra, tuyền truyền rộng rãi để mọi người cảnh giác và đề phòng. Qua đó, mỗi Tăng Ni, Phật tử hiểu rõ hơn con đường, biện pháp và phương thức khi hướng tới đạo Phật.
Phương châm của Giáo hội là: Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kính ngưỡng, phụng hành Giáo pháp, Giới luật Phật chế và tuân thủ Pháp luật nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiếp tục quán triệt, triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) về công tác tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định, chương tình, kế hoạch liên quan đến công tác tôn giáo; trong đó, phối hợp với Mặt trận các cấp quán triệt và triển khai thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng; đẨy mạnh phong trào thi đua yêu nước của các vị chức sắc, Tăng Ni, Phật tử, khai thác các giá trị đạo đức tốt đẹp của Phật giáo.
-
- KẾT LUẬN
Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và khế cơ. Khế lý là nhấn mạnh về tính tư tưởng. Khế cơ là nhấn mạnh về tính lịch sử. Nhờ khế lý, tư tưởng luôn phong phú, thâm diệu mà mình vẫn là mình. Do khế cơ nên mọi hình thái sinh hoạt, thể hiện, truyền bá luôn đa dạng, gắn bó mà không hề mất gốc. Giáo sư D.T.Suzuki (1870 -1966) nhà Phật học người Nhật nổi tiếng, trong tác phẨm “Nghiên cứu kinh Lăng Già” nơi phần bàn về: “Tầm cỡ của Phật giáo Đại thừa” đã viết: “Chẳng hạn, kinh Pháp Hoa đánh dấu thời kỳ lịch sử Phật giáo khi Đức Thích Ca Mâu Ni không còn được xem là một nhân vật lịch sử phải chịu số phận của mọi chúng sanh giả tạm, vì Ngài không còn là Đức Phật mang tính chất người mà chính là một vị sống bằng sự vĩnh cửu đối với lợi ích của mọi chúng sanh”. Do đó, có thể nói, trong thời đại “vạn vật kết nối”, con người được gần nhau hơn, được tiếp xúc với đầy đủ những cái tốt, xấu của lẽ thường. Song chúng ta vẫn có thể khẳng định, đạo đức Phật giáo không thay đổi về nội dung cũng như tầm ảnh hưởng của nó. Vấn đề đặt ra, chúng ta cần phải làm gì để đạo đức Phật giáo luôn có ảnh hưởng tích cực đến đời sống con người, đặc biệt là trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của những phần tử có ý đồ phá hoại những tư tưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Quang Hưng (2007), “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa”, Nguyệt san Giác Ngộ, số 130, Tr35-40.
Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2010), “Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Vui (1994), “Tôn giáo và đạo đức”, trong Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nhiều tác giả, Phật giáo trong thời đại chúng ta, Nhà xuất bản tôn giáo.
Trần Văn Giàu (1993), “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại”, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
Trương Sỹ Hùng (2007), “Tôn giáo và văn hóa”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Thích Gia Quang (2001), “Vài nét về đạo Phật với nền giáo dục đạo đức xã hội”, Nghiên cứu Phật học, số 5.
Thích Mãn Giác (1981), Đại cương đạo đức học Phật giáo, Trung tâm Văn hóa Phật giáo Việt Nam xuất bản.
Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (Tháng 6 năm 2014), “Hội nghị tổng kết và nhân điển hình tiêu biểu phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc vùng đồng bào các tôn giáo (1994 – 2014)”.