157

![]()
TƯ TƯỞNG KINH TẾ PHẬT GIÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Nguyễn Ngọc Dung*

![]()
TÓM TẮT
Tư tưởng kinh tế Phật giáo được xem như một hình thức kinh tế học sơ khai trên lập trường của tôn giáo này. Bài viết bàn về mối quan hệ tương tác giữa tư tưởng kinh tế Phật giáo đối với sự phát triển bền vững hiện nay.
Trên cơ sở khái quát những tư tưởng kinh tế Phật giáo và đối chiếu với yêu cầu và mục đích của phát triển xã hội bền vững, bài viết tập trung làm sáng tỏ ba luận điểm chính; bao gồm: thuyết Trung đạo được xem như là nền tảng của toàn bộ tư tưởng kinh tế Phật giáo; nông nghiệp, kinh doanh, đạo đức kinh doanh, lối sống tiết kiệm, hài hòa giữa hưởng thụ vật chất và thăng tiến tinh thần.. là những lĩnh vực quan tâm của kinh tế học Phật giáo; tác động của tư tưởng kinh tế Phật giáo đối với sự phát triển bền vững của xã hội, hiện tại và tương lai.
Bài viết cho rằng tư tưởng kinh tế học Phật giáo rất phù hợp với những yêu cầu hiện nay về một nền phát triển bền vững, coi đó là phương án tối ưu trong sự lựa chọn cách thức phát triển hiện nay của nhân loại.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua nhiều thế kỷ theo đuổi chủ nghĩa vật chất, con người

*. PGS. TS., Trường ĐH KHXHNV TP.HCM, Việt Nam.
vẫn không thỏa mãn được những nhu cầu của mình trong khi liên tục làm thoái hóa toàn bộ môi trường sống; như hủy hoại và làm cạn kiệt nguồn nước, ô nhiễm không khí, phá hủy tầng ozon, khai thác bừa bãi tài nguyên khoáng sản vốn không phải là vô tận, chế tạo số lượng vũ khí hạt nhân có thể hủy diệt nhiều lần trái đất v.v...
Trước nguy cơ đe dọa sự sinh tồn của nền văn minh nhân loại, những hoạt động quốc tế có ý thức cảnh báo toàn cầu sớm nhất, có lẽ phải kể đến Câu lạc bộ Rome, khi nó đưa ra bản báo cáo “Giới hạn của sự tăng trưởng” cho thấy thảm họa toàn cầu sẽ diễn ra nếu con người đẩy đến giới hạn các vấn đề gia tăng dân số, khai thác tài nguyên, tàn phá môi sinh. Rõ ràng nhân loại không thể chỉ chú trọng phát triển kinh tế, mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và môi trường sinh thái. Từ đó, thuật ngữ “Phát triển bền vững” đã xuất hiện và được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1980, trong “Chiến lược bảo tồn thế giới” của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Quốc tế - IUCN.
Một định nghĩa khá nổi tiếng về “Phát triển bền vững” được Báo cáo Brundtland (Báo cáo Our Common Future) do Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) đưa ra năm 1987 - là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Hiện nay, phần lớn các chính phủ và nhiều tổ chức xã hội đã hiểu rằng: để phát triển bền vững, cần có sự hòa hợp kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc giải quyết những vấn đề trên là những thách thức lớn, đối với hầu hết các chính phủ trên thế giới. Vì thế, nhiều nghịch lý vẫn lặp lại và còn sâu sắc thêm như nghèo khổ, đói khát, bất công, bệnh tật, ô nhiễm, xung đột, nhân mãn…trong khi của cải vật chất con người làm ra ngày càng nhiều, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển.
Trước vấn nạn về phát triển bền vững, vậy Phật giáo nói chung, tư tưởng kinh tế Phật giáo nói riêng, có hay không, tác động và tác động như thế nào đến sự phát triển bền vững trong thế giới ngày nay? Đó là câu hỏi nghiên cứu mà trong phạm vi một bài tham luận, chúng tôi nỗ lực làm sáng tỏ. Nhưng ở đây, chúng tôi không phân luận sâu về mối quan hệ giữa Phật giáo với sự phát triển bền vững của thế giới nói chung; mà chỉ khảo cứu mối quan hệ giữa những tư
tưởng kinh tế của Phật giáo với sự phát triển bền vững, thông qua sự thức tỉnh và thực hành tôn giáo (đạo Phật) của con người.
- THUYẾT “TRUNG ĐẠO” – NỀN TẢNG VÀ ĐIỂM XUẤT PHÁT CHO TOÀN BỘ TƯ TƯỞNG KINH TẾ PHẬT GIÁO
Gốc rễ của mọi vấn đề trên nằm ở quá trình phá hủy sự cân bằng vũ trụ thuộc mọi chiều kích trong các mối quan hệ giữa con người
- tự nhiên, con người – xã hội. Đối với thiên nhiên, con người vẫn hành xử như một vị chúa tể; đối với đồng loại, con người hành xử trên lập trường vị kỷ “tham, sân, si” “hỷ, ái, nộ”. Để tái lập lại sự cân bằng mang tính vũ trụ phổ quát vừa nhắc đến, tất nhiên phải bắt đầu từ vấn đề con người. Ở đây, Phật giáo, với tư cách một hệ thống mang tính khoa học, chính là một phương án thực tiễn rất khả thể.
Một trong những triết lý nền tảng của Phật giáo là thuyết Trung đạo (Madhyama pratipad). Đây không phải lý thuyết về sự thỏa hiệp hay quân bình giữa hai thái cực đối lập nhằm đi đến một thực tại lưỡng cực; mà là thứ lý thuyết phù hợp với “tính không” của vạn vật Nếu hiểu như Aristotle, triết gia Hy Lạp cổ đại về “trung đạo” thì sự thỏa hiệp hay quân bình giữa hai cực đối lập chỉ dẫn đến một tình trạng hòa hợp tạm thời chứ không rốt ráo1. Còn “trung đạo” – theo Phật giáo – là một sự hòa hợp rốt ráo, viên mãn; đó là: “Chân lý tuyệt đối trong bản chất của nó và đặc tính, thì luôn thuộc nội tại, dù Đức Phật có tồn tại hay không tồn tại, được gọi là “thường”. Chân lý tương đối là không thật và tất cả đều đi vào không tánh, được gọi là “không”. Như Lai nói duyên sinh là thường hoặc vô thường, cốt để tất thảy chúng sinh nhận thức rằng, duyên sinh thì cũng không phải thường, cũng không phải vô thường. Đây được gọi là Trung đạo”2. Đức Long Thọ (Nàgarjuna) thì đưa ra tám phủ định như một cách giải thích về ‘Trung đạo”; đó là không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không nhất, không đa, không đến, không đi3. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn, trong dân gian, ‘Trung đạo” được nhìn nhận như là

![]()
-
- Nguyễn Ngọc Dung (2014); Phật giáo với những vấn đề toàn cầu hiện nay; trong sách “Phật giáo với các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc (đồng chủ biên: Thích Nhật Từ, Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý), nxb ĐHQG-HCM, tr. 844-856.
- Dẫn theo Thích Kiên Định; Lược sử văn học Sanskrit & Hán tạng Phật giáo, nxb Thuận hóa, tr. 254.
- Đỗ Kim Thêm LL. M, MA; Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề hiện đại, nxb Hồng Đức, tr. 241.
những tư tưởng, hành vi đúng đắn, hợp lý, không cực đoan, phiến diện. Giống như Đức Phật Thích – ca ngày xưa, giữa hai khuynh hướng thọ lãnh vật chất và từ bỏ vật chất, Ngài chọn con đường “trung đạo” để vươn tới giải thoát.
Thuyết “Trung đạo” – theo chúng tôi – là nền tảng và điểm xuất phát cho toàn bộ tư tưởng kinh tế Phật giáo4, một hình thức kinh tế học sơ khai. Bởi lẽ học thuyết này, trong khi chấp nhận sự tồn tại giữa các mặt đối lập như là một sự thống nhất (tính đồng hiện và đồng biến), nhưng từ chối sự ‘thái quá” hoặc “bất cập” của chúng; đồng thời chỉ ra tính “thống nhất trong đa dạng” của vạn vật và bản chất tùy thuộc, chuyển hóa lẫn nhau ( tức vô ngã, vô thường) . Đây chính là phương thức sinh tồn và phát triển tối ưu của vạn vật, trong đó có con người và các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của họ.
- KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG KINH TẾ PHẬT GIÁO
Tư tưởng kinh tế Phật giáo, theo chúng tôi, không phải là một hệ thống lý luận chặt chẽ như cách trình bày của khoa học hiện đại, mà là những quan niệm về các hoạt động kinh tế, các hành vi kinh tế và đạo đức trong hoạt động kinh tế của con người. Những tư tưởng này nằm rải rác trong nhiều kinh sách Phật giáo. Lý do kinh tế học không được Phật giáo chú ý nhiều, có thể xuất phát từ mục tiêu giải thoát con người của tôn giáo này. Đức Phật chưa bao giờ đề cao vật chất, nhưng Ngài nhận thấy vật chất (trong một chừng mực) là cần thiết cho con người trở nên hạnh phúc và đạt đươc mục tiêu giải thoát tối hậu.
Trong kinh sách Phật giáo, có nhiều lần nhắc đến kinh tế và những hoạt động kinh tế xã hội. Tăng Chi bộ kinh nói đến các nghề canh nông, buôn bán, chăn nuôi, bảo vệ, dịch vụ và nhiều ngành nghề khác5. Có thể hình dung ra tư tưởng kinh tế Phật giáo tập trung vào hai vấn đề lớn: đó là kinh tế nông nghiệp và kinh doanh. Vì nông nghiệp từ xa xưa đã trở thành quen thuộc và nguồn sinh

![]()
-
- S.R Bhatt (2006). Kinh tế học Phật giáo; kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Phật giáo thời hiện đại, những cơ hội thách thức”, tr.761.
- Tăng Chi bộ kinh (Anguttara – nikaya), 1959; ed. Kashyap J. Pali Publication Board, Nalanda, pp. 375-77; dẫn theo H.S Shukla ‘Tư tưởng kinh tế Phật giáo cho một cuộc sống lành mạnh” trong sách “Quan điểm Phật giáo về lối sống lành mạnh, cb Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện, nxb Tôn giáo, 2014, tr. 53.
kế chính của con người, như Nho học đã từng phát biểu rằng “nông vi bản”.
Trong Tăng Chi bộ Kinh, có đề cập đến vai trò quan trọng của nông nghiệp, mô tả khá nhiều các hoạt động nông nghiệp cùng với đời sống của người nông dân6. Còn kinh doanh là những hoạt động kinh tế hướng đến mục tiêu lời lãi, trong đó có mối quan hệ giữa ông chủ với người làm thuê. Kinh Pampanika trong Tăng Chi bộ kinh giải thích công việc kinh doanh cần được thực hiện một cách thiện xảo và tận tụy. Và để kinh doanh thành công, ba điều kiện được Kinh Vephulla nêu lên là; trí tuệ (cakhumà), nhạy bén (vidhura) và tín nhiệm (nissaya)7.
Vấn đề nông nghiệp và kinh doanh trong tư tưởng kinh tế Phật giáo, theo chúng tôi, không chỉ là hai trọng tâm trong hoạt động kinh tế thời cổ đại (vẫn đúng cho cả ngày nay), mà còn là sự phản ánh hai cấp độ vi mô và vĩ mô trong nền kinh tế xã hội thời bấy giờ; trong đó có nhiều vấn nạn chưa hề thuyên giảm từ suốt 2.500 năm trước đến thời điểm hiện tại.
Khoa Kinh tế - chính trị học hiện đại (Modern Political Economy) đã đưa ra nhiều lý thuyết nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị, nhà nước với thị trường. Đặc biệt các lý thuyết kinh tế học hiện đại đã mổ sẻ và tối ưu hóa mọi cơ hội lợi nhuận trong kinh doanh8. Nhưng tất cả các phương pháp khoa học này đều chỉ quan tâm chủ yếu đến khía cạnh vật chất của hoạt động kinh tế, mà quên mất hoặc ít chú ý đến những khía cạnh tinh thần (tâm linh) của loại hoạt động này. Vật chất trở thành yếu tố quyết định hoặc chi phối các quan hệ xã hội. Cơn khao khát vật chất vô tận của con người đã đẩy xã hội đến hết thứ khủng hoảng này đến thứ khủng hoảng khác; cũng vô tận như lòng tham của con người vậy.
Trong khi đó, nền kinh tế Phật giáo lại chú ý đến sự hài hòa giữa lợi nhuận và đạo đức kinh doanh. Dựa căn bản trên đạo đức, nền kinh tế Phật giáo đã đề cập đến các hoạt động kinh tế của con

![]()
-
- Sđd.
- Sđd.
- Xem lý thuyết “Nhà nước không can thiệp” (Laissez - faire) hay là “Thị trường tự do”; lý thuyết của John Maynard Keynes (1883 – 1946) về chủ nghĩa tư bản hiện đại; Paul Anthony Samuelson (1915 – 2009) - lý thuyết về kết hợp thị trường và nhà nước v.v...
người, các quy phạm đạo đức kinh doanh gắn liền với các chuẩn mực tôn giáo. Đức Phật khuyên người ta trong bốn chục năm đầu, càng tạo ra của cải nhiều càng tốt, qua những ngành nghề tương ứng với chánh mạng. Ngài cũng lên án lối làm ăn gian dối, mưu mẹo, vẽ vời, thuần túy theo đuổi lợi nhuận, vì lợi nhuận9. Một số cách kiếm sống sai lạc được liệt kê dưới đây phù hợp với việc giữ gìn “ngũ giới” (không giết hại, trộm cắp, gian dâm, nói dối, sử dụng chất gây say) nhằm duy trì sự an lành, hòa hợp xã hội; cụ thể là: kiếm tiền bằng vẻ bề ngoài giả dối (kuhana), kiếm tiền bằng lời đường mật quanh co (lapana), kiếm tiền bằng cách bỏ qua lợi nhỏ để được lợi lộc lớn (labhena labhanijiginsanata), lường gạt người bằng cách cân đo không chính xác (tula kuta)10. Muốn tránh những sai phạm trên, con người phải tuân thủ “Bát chánh đạo”, khi ấy đảm bảo cho họ tiến bộ cả về về kinh tế và tâm linh. Trong điều kiện kinh tế rối loạn hoặc bất ổn sẽ tạo nên chướng ngại cho con người trên con đường giác ngộ; khi ấy việc thực hiện “Bát chánh đạo” cũng trở nên bất khả thi. Con người lúc đó phải chịu cảnh lầm than do sự thiếu đạo đức và tội phạm xã hội. Thế là họ phải chấp nhận các phương cách kiếm sống bất thiện để sinh tồn. Dù các chính phủ có thể dẹp bỏ tội phạm bằng luật pháp, nhưng không bao giờ thành công, trừ khi điều kiện kinh tế của con người được cải thiện; bằng cách nhà nước cung cấp giống cho người trồng trọt, cấp vốn cho người kinh doanh và lương bổng cho công nhân. Kết quả là người dân sẽ hài lòng, xã hội không còn tội phạm, sẽ trở nên bình an11.
Như thế, có thể nói rằng, ở cấp độ vĩ mô, tư tưởng kinh tế Phật giáo chính là: (1). Sự kết hợp kinh tế với đạo đức xã hội; (2). Sản xuất vật chất phải đi đôi với tăng trưởng về tinh thần (tâm linh). Đây mới chính là chìa khóa vạn năng để xã hội phát triển bền vững. Khi ấy, tôn giáo (Phật giáo) cũng sẽ trở thành động lực của lịch sử.
Ở khía cạnh kinh tế vi mô, liên quan đến hoạt động kinh tế cá

![]()
-
- Trung bộ kinh (Majjhyma - nikaya) 1959; ed. Kashyap J. Pali Publication Board, Nalanda, vol. I - III; dẫn theo H.S Shukla ‘Tư tưởng kinh tế Phật giáo cho một cuộc sống lành mạnh” trong sách “Quan điểm Phật giáo về lối sống lành mạnh, cb Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện, nxb Tôn giáo, 2014, tr. 49.
- Trường bộ kinh (Dighanikaya), 1959; ed. Kashyap J. Pali Publication Board, Nalanda, vol. I – III.
- Sđd, vol. I, p. 101.
thể (individual economic activity), tư tưởng kinh tế Phật giáo chỉ rõ những hoạt động này nhằm duy trì sự sống con người, từ những nhu cầu cơ bản đến việc hưởng thụ một cuộc sống dễ chịu, thoải mái. Kinh Sabbasava cho rằng, nhu cầu cơ bản của con người gồm y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men. Khi đã thỏa mãn những nhu cầu căn bản, con người có thể tiến đến cuộc sống tiện nghi thoải mái. Đằng sau việc hưởng thụ vật chất chính là động lực thúc đẩy cho sự thành tựu tâm linh12.
Theo quan điểm Phật giáo, con người ta phải kiếm sống một cách thiện xảo (dhammena), chân thật, siêng năng, không bạo động (asahasena). Kinh Vyagghapajja trong Tăng Chi bộ kinh đưa ra bốn yếu tố hỗ trợ cho người đầy năng lực, tinh tấn trong nghề nghiệp như sau: (1). Sự thành tựu qua những cố gắng hiện hữu, tinh xảo, luôn chuyên cần trong nghề nghiệp của mình (Utthana – sampada); (2). Tài sản kiếm được một cách chân chính được bảo vệ khỏi trộm cướp và những rủi ro đầy rẫy trong xã hội (Arakkha
– sampada); (3). Bằng hữu và cộng sự trung thành, có đạo đức, học thức, thông minh để giúp doanh nhân đi đúng đường, tránh sa vào tội lỗi (Kalyana – mitta); (4). Có một cuộc sống ổn định với sự hiểu biết rằng cách thu nhập và chi tiêu của mình đưa đến cuộc sống đó (Samajivikata)13. Cũng theo Tăng Chi bộ kinh, khi con người tạo được khối tài sản một cách chân chính, sử dụng nó theo đúng tinh thần Phật pháp, thì sẽ nhận được bốn điều hạnh phúc: thu nhập chân chính (atthisukha), hưởng thụ xứng đáng (bhoga – sukha), không mang nợ (anana – sukha), tránh khỏi những hoạt động phạm pháp (anavajja – sukha). Ba điều đầu tiên liên quan đến tiến bộ vật chất, điều thứ tư liên quan đến tiến bộ tâm linh14. Nhưng để tiếp tục cho cuộc hành trình về tâm linh, nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng là giải thoát, người ta cần thêm những đức tính hỗ trợ như tín tâm (saddaha) - lòng tin cậy vững chắc vào các giá trị đạo đức và tâm linh; sila - sự kiềm chế trước mọi hành vi bất thiện; caga - sự bố thí rộng lượng; wisdom - sự minh triết về bản chất thực sự của

![]()
-
- Sđd, vol. III, p. 169.
- Tăng Chi bộ kinh (Anguttara – nikaya), 1959; ed. Kashyap J. Pali Publication Board, Nalanda, vol. IV, p. 377; dẫn theo H.S Shukla ‘Tư tưởng kinh tế Phật giáo cho một cuộc sống lành mạnh” trong sách “Quan điểm Phật giáo về lối sống lành mạnh, cb Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện, nxb Tôn giáo, 2014, tr. 54.
- Sđd, vol. II, pp. 73 - 74.
thế gian vốn vô ngã - vô thường – đau khổ15.
Tư tưởng kinh tế Phật giáo cũng ít nhiều đề cập đến việc tích lũy vốn, tài sản trong hoạt động kinh tế. Trong khi không chấp nhận việc kiếm tiền bằng những hành vi bất thiện, Phật giáo đồng thời không chấp nhận việc tích trữ tài sản, vì quan niệm là của cải làm ra để tiêu dùng, không phải để tích trữ16. Kinh Vyagghapajja đã bài bác sự tích trữ tài sản và lối sống bủn xỉn như hạng người bần cùng, đói khát.
Tuy vậy, Phật giáo không khuyến khích tiêu dùng lãng phí, mà cần tiết kiệm. Kinh Sagalovada đề xuất một cách chi tiêu khôn khéo như sau: 1/4 số tiền thu nhập nên dùng cho bản thân và gia đình, thân quyến; 2/4 số tiền thu nhập tiếp theo dành cho việc kinh do- anh kiếm lời để phát triển tương lai; 1/4 còn lại dành cho việc khẩn cấp giải quyết mọi tai họa có thể xảy ra17. Những quan điểm kinh tế trên được trình bày một cách giản dị vào thời Đức Phật, theo có thể vẫn hữu dụng cho đến ngày nay.
- TÁC ĐỘNG CỦA TƯ TƯỞNG KINH TẾ PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Xét về phương diện xã hội, cấu trúc xã hội hiện đại đang ở thời kỳ rất hỗn độn, thậm chí hỗn độn nhất. Đó là chủ nghĩa quốc gia đang phát triển ở những sắc tộc ly khai, thường mang màu sắc tôn giáo, tạo nên những xung đột quốc tế liên tiếp, kéo dài, diễn ra trên hầu khắp các châu lục. Sản xuất vật chất tiếp tục gia tăng nhưng vẫn không đáp ứng nổi những nhu cầu vô tận của con người, không rút ngắn được khoảng cách giàu – nghèo giữa các cá nhân, giai cấp, dân tộc; không loại bỏ được tình trạng thiếu lương thực, thiếu nguồn nước sạch, thiếu y tế, giáo dục, nhà ở. Trong khi môi trường bị xâm hại đến mức kiệt quệ, môi sinh bị ô nhiễm nặng nề, đe dọa sự sống trên trái đất, nhiều loài sinh vật bị tiệt chủng. Chủ nghĩa sùng bái vật chất vẫn tiếp tục được con người đề cao và say mê theo đuổi v.v...

![]()
-
- Sđd.
- H. S. Shukla, Tư tưởng kinh tế Phật giáo cho một cuộc sống lành mạnh; trong sách “Quan điểm Phật giáo về lối sống lành mạnh, cb Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện, nxb Tôn giáo, 2014, tr. 54.
- Trường bộ kinh (Dighanikaya), 1959; ed. Kashyap J. Pali Publication Board, Nalanda, vol. III, p.145.
Mặc dù thế giới ngày nay đã có một tổ chức rộng rãi là Liên Hiệp Quốc (thành lập từ 1945) – một tổ chức toàn cầu, quy tụ hầu hết các quốc gia trên trái đất này trong một diễn đàn nhằm gìn giữ hòa bình, an ninh thế giới, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo dục giữa các quốc gia thành viên, mang lại nền hòa bình thịnh vượng chung cho nhân loại. Nhưng nhìn chung, đó vẫn chỉ là những ước nguyện mang tính thời đại.
Các chính phủ, các tổ chức xã hội, các nhà hoạt động cộng đồng đang cố gắng cải thiện tình trạng nan giải của xã hội hiện đại, nhưng nhiều phen họ cũng bất lực.
Phật giáo từ xa xưa đã nhận thấy, các cuộc cải tạo xã hội, nếu chỉ diễn ra bên ngoài cá nhân con người thì khó rốt ráo. Muốn thay đổi căn bản những vấn đề nan giải của xã hội, cần có cách tiếp cận thay đổi con người từ bên trong. Vì thế, Phật giáo luôn lấy cá nhân làm đối tượng chuyển hóa và đề cao mọi nỗ lực cá nhân; từ đó mới bàn đến chuyển hóa xã hội. Đây chính là chỗ mầu nhiệm của Phật giáo khi so với những giáo lý hiện hữu khác.
Thực ra Phật giáo thực hiện nhiều chức năng xã hội, trong đó có chức năng tư tưởng. Như Karl Marx đã từng nhận định, một khi tư tưởng ăn sâu vào đời sống xã hội, nó sẽ trở thành một lực lượng vật chất. Về điểm này, một học giả khác cũng đã viết “Tôn giáo thường có ảnh hưởng mang tính quyết định đối với các nguồn lực xã hội..., kết hợp với nguồn nhân lực và tài lực, quyết định sự tăng trưởng kinh tế quốc gia”18. Như vậy, một khi tư tưởng kinh tế Phật giáo tác động tới cấu trúc xã hội hiện đại, có thể xuất hiện một khuynh hướng kinh tế - đạo đức (nền kinh tế dựa trên nền tảng đạo đức Phật giáo); trong đó, sự tiến bộ vật chất của con người luôn diễn ra trong điều kiện hoàn thiện mọi đức hạnh vốn được xem như bổn phận trở thành của con người.
Khác với kinh tế học hiện đại, cho rằng hoạt động kinh tế để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, tư tưởng kinh tế Phật giáo hướng đến các hoạt động kinh tế đảm bảo sự hài hòa giữa tinh thần và vật chất. Con người cần tu tập trong bốn nhu cầu ăn – mặc - ở – thuốc thang để trở nên an lạc, hạnh phúc, tránh những ham muốn vô độ, bất thiện. Có lẽ đây là câu trả lời cho tình trạng

![]()
-
- L. Iannaccone (1998). Introduction to the Economic of Religion; Journal of Economic Literature 36, pp. 1465-96.
sản xuất quá mức, tiêu dùng quá độ của cải vật chất trong xã hội hiện đại. Kinh sách Phật giáo cũng chỉ ra những vấn nạn xã hội sinh ra từ nghèo khổ làm tha hóa bản tính con người, đẩy họ đến hành động trộm cắp, tham lam, gian dối, ác độc... các hành vi bất thiện nói chung.
Từ những tư tưởng kinh tế Phật giáo trên đây, theo Thích Nhật Từ, có thể phát biểu những giáo huấn của Đức Phật về kinh tế học dưới công thức: “Hưởng hạnh phúc tối đa với tài sản tối thiểu”19. Có lẽ, chỉ có nền kinh tế hướng tới đạo đức tâm linh như Đạo Phật mới hiệu quả như vậy; bởi mục tiêu tối thượng của nó là “diệt khổ”, chứ không nhằm thỏa mãn sự tham dục của con người. Một kinh tế gia hiện đại cũng đã nhận xét: “Kinh tế học Phật giáo hẳn rất khác so với kinh tế học của chủ nghĩa duy vật hiện đại, bởi vì người theo Phật nhìn thực chất của nền văn minh, không phải trong phép tính nhân của những nhu cầu con người, mà là trong sự tịnh hóa tính cách con người”20.
Ở phương diện cá nhân, tư tưởng kinh tế Phật giáo khuyến khích mỗi người kinh doanh hoặc kiếm sống trên tinh thần đạo đức Phật giáo, thực hành “Bát chánh đạo”, “từ, bi, hỷ, xả”, “rộng lượng bố thí”. Với họ, hành nghề trước hết như bổn phận, chứ không phải mưu sinh, mánh lới; để an lạc hạnh phúc, chứ không phải duy nhất cầu lợi. Lời khuyên của Đức Phật đối với Sigala trong Kinh Sigalovada
- như chúng tôi nhắc ở phần trên - vẫn là phù hợp cho hiện tại: Cá nhân nào có tài lực, nên đầu tư kinh doanh để thêm lợi lộc, trong khi vẫn đảm bảo cuộc sống gia đình và bản thân. Đây là bài học kinh tế rất thiết thực giữa sản xuất và tái sản xuất, giữa ổn định và phát triển. Nếu được như vậy, mỗi cá nhân trong sinh hoạt thường ngày của họ đã mang ý nghĩa tôn giáo (Phật giáo); tất yếu dẫn đến một xã hội phát triển hài hòa, bền vững.
Như vậy, tư tưởng kinh tế học Phật giáo trong xã hội hiện đại là rất cần thiết và có thể ứng dụng để giảm thiểu những nghịch lý mà xã hội hiện đại tạo ra. Một nghiên cứu cho thấy kinh nghiệm làm công quả của nhiều ngôi chùa Khmer Nam Bộ (Việt Nam) từ xưa là: nhà chùa - một đơn vị kinh tế mà “phi kinh tế”. Ruộng đất nhà

![]()
-
- Thích Nhật Từ (2006). Kinh tế từ cái nhìn Phật giáo; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Phật giáo thời hiện đại, những cơ hội, thách thức”, tr. 772.
- Dẫn theo Thích Nhật Từ, sđd, tr. 769.
chùa được sư sãi, Phật tử canh tác; nguồn lợi chia công bằng cho các gia đình trong phum, sóc; nhà chùa không giữ lại thóc gạo hay hoa lợi gì, vì đã có Phật tử bố thí. Bên cạnh hoạt động kinh tế, nhà chùa còn là một đơn vị hoạt động từ thiện tích cực21. Thí dụ này để minh chứng cho tư tưởng kinh tế Phật giáo dựa trên đức tin và nguyên lý “Trung đạo” trong Phật giáo mà chúng ta đang bàn luận.
Chúng tôi dẫn dụ thêm một trường hợp nghiên cứu - gần như tương tự, nhưng xuất sắc hơn nhiều - quan hệ giữa tư tưởng tôn giáo với phát triển xã hội. Đó là trường hợp Max Weber khi ông bàn về mối quan hệ giữa Đạo đức Tin lành với chủ nghĩa tư bản22.
Webber quan sát thấy người Tin Lành có thiên hướng đặc biệt thuận lợi cho óc duy lý kinh tế, cho dù họ là tầng lớp thống trị hay bị trị, là nhóm dân cư đa số hay thiểu số; nhưng người ta chưa bao giờ thấy đặc tính này nơi người Công giáo23. Weber giải thích rằng: do người Công giáo có thiên hướng “thoát ly khỏi thế gian” mạnh mẽ hơn, được răn dạy về lối sống khổ hạnh và thói coi thường của cải; trong khi người Tin Lành lại phê phán lối sống khắc khổ đó và chủ trương làm giàu là bổn phận trước Chúa Trời. Nói một cách hóm hỉnh: nếu phải chọn “ăn ngon” hay “ngủ yên”, thì người Tin Lành chọn “ăn ngon”, trong khi người Công giáo chọn “ngủ yên”24. Nhờ thế, ngoài lòng mộ đạo, người Tin Lành còn có tinh thần tự do và thương mại. Đây chính là đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản – điểm tương phùng với tư tưởng kinh tế Tin Lành.
Người ta thường xem các hiện tượng: ham muốn chiếm hữu, hám lợi, chạy theo tiền bạc bằng nhiều thủ đoạn, thậm chí đê tiện là thuộc tính của chủ nghĩa tư bản. Nhưng bình tâm mà xét, các hiện tượng trên không phải là “thiên tư” của chủ nghĩa tư bản, mà từng tồn tại trong mọi xã hội trước đó, thậm chí đến tận bây giờ vẫn thế; từ người hầu bàn, viên chức, kẻ cắp, trí thức, phu xe ngựa, hạng ăn

![]()
-
- Chơn Minh Lê Khắc Chiếu (2015). Khảo sát ảnh hưởng của Phật giáo ở lưu vực Mekông và vùng châu thổ sông Cửu Long; trong sách “Phật giáo vùng Mekong:Lịch sử và hội nhập” (Bbt Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý, Thích Nhật Từ, Thích Bửu Chánh), nxb ĐHQG-HCM, tr. 258.
- Max Weber. Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản; Bùi Văn Sơn Nam, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch, nxb Tri thức, 2010.
- Sđd, tr. 77.
24. Sđd, tr. 78 - 79.
mày đều có những phẩm chất ấy – gọi là phẩm chất phổ biến và thông thường của con người. Lòng tham của cải của vị quan Trung Hoa, của nhà quý tộc Rome cổ đại, hay của người nông dân hiện đại đều không thua kém gì nhau25. Điều đó có nghĩa là: Tín đồ Tin Lành cũng là con người, nhưng họ có một thứ đạo đức tôn giáo
- trở thành động lực và nguyên tắc sống độc đáo của họ. Với họ, việc kiếm tiền như một lẽ sống nhằm phục vụ lợi ích xã hội – phi cá nhân, “để ca ngợi Vinh quang của Thiên Chúa”, “đó là điều Thiên Chúa muốn”. Tín đồ Tin Lành xem tài sản của mình chiếm giữ (sở hữu) chỉ là trách nhiệm của họ trước Chúa Trời. Tài sản càng nhiều thì trách nhiệm càng lớn. Trên tinh thần ấy, các nhà tư bản Tin Lành (hoặc theo khuynh hướng Tin Lành) sau khi làm ăn thành công thường trả lại xã hội những tài sản lớn, thông quan hiến tặng hoặc làm từ thiện xã hội. Ở điểm này, đạo đức Tin Lành, theo chúng tôi, đã hàm chứa (hay là hấp thụ?) ít nhiều tư tưởng “Trung đạo” của Phật giáo.
TÓM LẠI
Nhờ dựa trên nguyên lý “Trung đạo”, nền kinh tế theo tinh thần Phật giáo không tách việc sản xuất vật chất ra khỏi những tiến hóa về đạo đức và tinh thần. Nó đảm bảo việc tiêu thụ khôn ngoan và hợp lý; hưởng thụ của cải đi liền với thành tựu, tiến bộ tâm linh; chấp nhận lợi nhuận mà không chấp nhận việc thủ lợi; khuyến khích tiêu dùng mà bài trừ tích trữ; vì lợi nhuận không được dùng cho mục tiêu cá nhân, mà phải dùng vào mục tiêu tăng trưởng phục vụ xã hội, giúp đỡ người nghèo, làm từ thiện cho bá tánh.
Trong điều kiện xã hội hiện đại, nhu cầu phát triển bền vững đang đặt ra cấp bách. Với tư cách là một học thuyết, Phật giáo nói chung, tư tưởng kinh tế Phật giáo nói riêng – theo chúng tôi - có vai trò hướng đạo đối với sự phát triển bền vững , tức là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Thực chất phát triển bền vững nằm ở hai phương diện: Thứ nhất, con người phải tôn trọng tự nhiên, khai thác và bảo vệ tự nhiên một cách khôn ngoan, trách nhiệm; thứ hai, con người phải thay đổi lối

25. Sđd, tr. 103.
sống chạy theo chủ nghĩa vật chất cực đoan, chủ nghĩa tiêu dùng cực đoan và chủ nghĩa vị kỷ cực đoan, giảm thiểu bất công, nghèo đói, bất bình đẳng trong xã hội, tạo dựng hòa bình. Những đặc tính này hoàn toàn phù hợp với nguyên lý “Trung đạo” và phương thức phát triển kinh tế một cách hài hòa giữa nhu cầu vật chất và tinh thần con người trong Phật giáo. Cho nên có thể đưa ra một mệnh đề giả thuyết là: tư tưởng Phật giáo (bao gồm cả những tư tưởng kinh tế) là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của xã hội loài người, hiện tại và tương lai.
***
Tài liệu tham khảo
L. Iannaccone (1998). Introduction to the Economic of Religion; Jour- nal of Economic Literature 36.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế (2006), Phật giáo thời hiện đại, những cơ hội, thách thức, Viện nghiên cứu Phật học.
Max Weber. Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản; Bùi Văn Sơn Nam, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch, nxb Tri thức, 2010.
Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Tiến Dũng, Vũ Văn Nghinh(2000),Lịch sử các học thuyết kinh tế, nxb ĐHQG-HCM.
Phật giáo với các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc (2014), cb; Thích Nhật Từ, Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý, nxb ĐHQG-HCM.
Phật giáo vùng Mekong: Di sản và văn hóa (2015), bt Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý, Thích Nhật Từ, Thích Bửu Chánh), nxb ĐHQG-HCM.
Phật giáo vùng Mekong:Lịch sử và hội nhập (2015), bt Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý, Thích Nhật Từ, Thích Bửu Chánh), nxb ĐHQG-HCM.
Quan điểm Phật giáo về lối sống lành mạnh (2014), cb Thích Nhật Từ, Thích Đức Thiện, nxb Tôn giáo.
Tăng Chi bộ kinh (Anguttara – nikaya), 1959; ed. Kashyap J. Pali Publication Board, Nalanda.
Trung bộ kinh (Majjhyma - nikaya) 1959; ed. Kashyap J. Pali Pub- lication Board, Nalanda, vol. I – III.
Trường bộ kinh (Dighanikaya), 1959; ed. Kashyap J. Pali Publica- tion Board, Nalanda, vol. III, p.145.