- Đặt vấn đề
Trong lịch sử văn hóa Ấn Độ, Đức Phật có một vị trí rất quan trọng. Chính Đức Phật đã làm cho thế giới biết đến dân tộc Ấn bằng cách đưa những tư tưởng và quan điểm của mình vượt biên giới Ấn Độ đến với toàn thể nhân loại. Bằng tấm lòng rộng mở, yêu thương con người, Đức Phật đã cống hiến cả cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp mà ngài đã giác ngộ. Hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, nhưng nhân cách vĩ đại của Đức Phật vẫn mãi là tấm gương sáng cho nhân loại về lòng từ bi, yêu thương và trí tuệ.
Có thể khẳng định, văn hóa Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo Nguyên thủy. Xã hội Việt Nam cũng ảnh hưởng rất lớn từ nhân sinh quan của Phật giáo Nguyên thủy. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa ứng xử của Đức Phật sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu rõ hơn nữa về một tôn giáo đã góp phần quan trọng trong việc cấu thành văn hóa - xã hội dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, bạo lực, chiến tranh và thù hận vẫn đang đe dọa nhân loại từng giờ, từng phút. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra khiến cuộc sống con người trở nên ngột ngạt, căng thẳng. Trong bối cảnh ấy, việc tìm hiểu về nhân cách văn hóa một vĩ nhân chủ trương bất bạo động trong văn hóa ứng xử của mình như Đức Phật là điều cần thiết.
* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Thông điệp “Lấy từ bi đáp trả oán thù” của Đức Phật sẽ phần nào giúp nhân loại tỉnh ngộ và nhìn lại nhân tính của mình trước bờ vực của chiến tranh, hận thù và xung đột.
- Văn hóa ứng xử của Đức Phật đối với xã hội
-
- Ứng xử với gia tộc
Đức Phật là một con người sống rất tình cảm, bởi vì đạo của ngài là đạo yêu thương. Vua Suddhodana, phụ hoàng của Đức Phật cũng là một người sống rất nặng tình. Kể từ ngày thái tử Siddhartha từ bỏ tiểu quốc Sakya để đi tìm đạo, không lúc nào vua Suddhodana không nhớ đến người con trai ưu tú của mình.
Tình thương của vua Suddhodana đối với thái tử thật là sâu sắc, nên khi biết được tin ngài đã thành Phật và đang giáo hóa tại thành Ràjagaha, vua đã cho Kàludàgin đi mời Đức Phật về thăm quê nhà. Bấy giờ là lúc mùa an cư vừa kết thúc, ngài bắt đầu khởi hành đi từ Ràjagaha đến Kapila. Theo kinh điển thuật lại, Đức Phật phải mất gần hai tháng để đi bộ trở về quê hương trên đoạn đường dài khoảng 600 km. Khi về đến quê hương, ngài đã đi khất thực. Vua không thể ngờ được việc một người tôn quý như Đức Phật mà lại đi khất thực trong quốc gia của cha mình. Vượt qua mọi lễ giáo thường thức, nhà vua đã tìm đến gặp Đức Phật để chất vấn về hành động mà nhà vua cho là “không thể hiểu nổi”. Đức Phật đã chào vua cha, và giải thích rằng, đây là lối sống của người xuất gia như ngài. Ngài đi khất thực với tất cả mọi gia đình để sống và không phân biệt sang hèn. Còn về việc nhà vua hỏi tại sao một thái tử thuộc dòng Kshatriya lại đi khất thực ở nhà của những người Sudra, thì ngài trả lời: “Không ai cao quý và thấp hèn hơn ai. Con người chỉ cao quý hay thấp hèn
do lời nói, suy nghĩ và hành động của mình”. Cách lý giải đó làm cho vua Suddhodana nguôi ngoai phần nào nỗi đau khổ chất chứa trong lòng. Khi về hoàng cung, Đức Phật đã nói hết những đạo lý, tư tưởng mà ngài đã giác ngộ được cho vua cha. Ngài kiên nhẫn giải thích từng vấn đề một trong tinh thần thương yêu và kính trọng vua Suddhodana. Đối với Đức Phật, đó là điều cao quý nhất, là cách báo hiếu của một người con dành cho cha mình, và ngài đã làm đúng những gì ngài nghĩ. Có thể, rất nhiều người không đồng ý với việc ngài đã bỏ vua cha với gánh nặng quốc gia mà ra đi. Nhưng đối với ngài, điều đó không có giá trị bằng sự giải thóat và giác ngộ của trí tuệ con người. Vì rằng mọi quốc gia và thế giới rồi cũng sẽ có ngày tan nát, nhưng những nguyên tắc mà ngài đã giác ngộ là không bao giờ thay đổi. Ngài đã nói cho cha mình nghe những sự thật quý báu đó. Theo Đức Phật đã dâng hiến những gì cao quý trong tâm hồn và trí tuệ của mình cho cha. Nói cách khác, Đức Phật đã sống rất trung thực với nhân sinh quan của chính mình.
-
- Ứng xử với quốc gia
Tuy xem nhân loại là nhà, không còn ràng buộc và sở hữu gì ở thế gian này, nhưng Đức Phật vẫn có tình cảm sâu sắc với tiểu quốc Sakya. Những tình cảm đặc biệt ấy được ngài thể hiện bằng những hành động cụ thể trong cuộc đời của mình.
Ngài thấy rõ chuyện thịnh suy là lẽ thường tình của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia và rộng hơn là cả thế giới. Nhưng cái độc đáo của Đức Phật là ở chỗ, ngài không tìm mọi cách để cản trở quy luật vận động, nhưng cũng không thờ ơ nhìn nó chuyển động mà không mảy may can thiệp vào. Nói một cách chân xác,
Đức Phật đã có những hành động nhằm mục đích mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước mình.
Có hai việc làm của Đức Phật với tiểu quốc Sakya, mà bản thân hai hành động ấy cũng đủ chứng tỏ ngài rất quan tâm đến vận mệnh của tiểu quốc và can thiệp rất sâu đến chuyện thế sự. Đó là việc Đức Phật đã dùng uy tín của mình để tán thành việc vương tử Mahanãma lên ngôi kế vị vua Suddhodana vừa băng hà. Với cái nhìn sáng suốt, Đức Phật lo lắng cho vận mệnh của tiểu quốc Sakya bé nhỏ, nên đã đưa những người đáng lẽ phải thừa kế ngôi vua nhưng không có khả năng làm vua đi xuất gia hết, để ngôi vua cuối cùng lọt vào tay một người trí dũng là Mahanãma. Đoạn trích sau đây cho thấy tình thế ngặt nghèo lúc đó của đất nước và những lo toan của ngài: “... Lúc Suddhodana đại vương còn tại thế, các nước ở bốn phía xung quanh tiểu quốc Kapila đã tiềm tàng một nỗi lo. Sự hưng khởi của nước Kosala thực sự là nỗi uy hiếp lớn nhất của tiểu quốc Kapila. Vì vậy, Đức Phật sợ rằng, Nanda có quyền kế vị mà cứ đắm chìm trong nữ sắc, ý chí bạc nhược, Rahula thì thơ ấu không thể đảm đương nổi nhiệm vụ to lớn của đất nước. Cho nên, Đức Phật đều đưa họ đi xuất gia. Bấy giờ Suddhodana qua đời, đất nước vô chủ, dân
chúng bàng hoàng”(1). Mối ưu tư với cục diện quốc gia, cộng với
việc không ngần ngại dùng uy tín của mình để tỏ ý ủng hộ và tán thành Mahanãma lên ngôi là một việc làm thể hiện tinh thần trách nhiệm cao độ đối với đất nước. Vì theo cái nhìn của Đức Phật, Mahanãma có đầy đủ tài trí để đảm đương trọng trách với cương vị là quốc vương tiểu quốc Sakya. Quả thật, việc can thiệp của Đức Phật vào cục diện chính trị của tiểu quốc Sakya đã tạo
1 Tinh Vân đại sư, Thích ca mâu ni Phật, Nxb. Văn hóa Thông tin, tr. 263.
ra những kết quả rất tích cực. Dưới thời Mahanãma, dân chúng sống no đủ và an vui như mong muốn của ngài. Rồi một tai họa bất thần ập lên đầu tiểu quốc Sakya bởi vương tử Vidũdabha, con của vua Pasenadi với con gái của vua Mahanãma. Dòng họ Sakya đã lừa dối vua Pasenadi trong cuộc hôn nhân này. Họ nói dối vua rằng, công chúa của vua Mahanãma mang dòng máu quý tộc thuần khiết. Nhưng sự thật, nàng là kết quả của một cuộc tình vụng trộm giữa vua Mahanãma và một cô gái thuộc đẳng cấp Sudra. Tức giận vì sự lừa dối ấy, vua Pasenadi đã định cất quân chinh phạt tiểu quốc Sakya, nhưng vì vua Pasenadi là một đệ tử trung thành của Đức Phật nên nhà vua sau khi nghe lời khuyên của Đức Phật đã hoan hỉ bỏ qua lỗi lầm đó của tiểu quốc Sakya. Nhưng những nhà lãnh đạo tiểu quốc Sakya đã không dừng lại ở đó mà còn tỏ thái độ miệt thị vương tử Vidũdabha về sự xuất thân của mẹ ông. Uất hận vì sự miệt thị ấy, vị vương tử con trai của vua Pasenadi thề sẽ lấy máu của tiểu quốc Sakya để rửa nhục cho mình. Cuối cùng, thời cơ cũng đến, sau một cuộc đảo chánh ngoạn mục, vương tử Vidũdabha lên làm vua. Vua Pasenadi phải lánh nạn con trai và chết trên đường đi cầu viện. Khi lên ngôi, Vidũdabha nhớ đến mối hận cũ, ngay lập tức ông cất quân chinh phạt tiểu quốc Sakya. Cả ba lần Vidũdabha kéo quân chinh phạt, đều gặp phải Đức Phật ngồi ngay biên giới để xin ông đừng dụng vũ lực mà xâm phạm tiểu quốc Sakya, quê hương của Ngài. Mặc dù là một hôn quân, nhưng Vidũdabha lại có một sự tôn trọng đặc biệt dành cho cá nhân Đức Phật. Cả ba lần ông đều bước xuống chiến xa để thỉnh cầu Đức Phật đừng nên nhọc sức già và khuyên ngài nên dời chân sang cộng hòa Kosala của ông, vì nơi ấy có cây râm mát, ngược lại, gốc cây mà Đức Phật ngồi ở biên giới thuộc đất của tiểu quốc Sakya lại trơ trụi và khô cằn. Hành
động quyết tâm dùng uy tín, đạo đức của mình để ngăn chặn chiến tranh diễn ra ở tiểu quốc Sakya của Đức Phật là một hành động nhân văn cao cả. Ngài xuất thân từ đẳng cấp quý tộc nhưng đã tuyên bố từ bỏ đao kiếm và đã lấy trí tuệ, tình thương làm lẽ sống. Dĩ nhiên Đấng Giác ngộ không bao giờ chủ trương nhúng tay vào bạo lực hoặc kích động nó. Đức Phật đã đem tấm thân già nua của mình ra biên giới để quyết tâm ngăn cản cuộc chiến tranh mà sự hủy diệt chắc chắn sẽ thuộc về tiểu quốc Kapila. Nhưng tiếc thay cho bậc đạo sư, những nỗ lực của ngài không thể cứu vãn được một chiếc lá vàng đã đến lúc phải rời cành. Lần thứ tư, nhân lúc Đức Phật không can thiệp kịp thời, vua Vidũdabha đã kéo quân sang chinh phạt quê hương của ngài.
-
- Ứng xử với các tầng lớp xã hội
Đức Phật đã làm cho những người thuộc đẳng cấp quý tộc đương thời ngạc nhiên khi ngài công khai xác nhận tình trạng bình đẳng của con người. Không chỉ công khai xác nhận bằng lời nói, ngài còn thể hiện bằng những hành động cách mạng thực tế. Việc Đức Phật thâu nhận vào Tăng đoàn mọi người có ý chí và lương tâm chứ không dựa trên thành phần đẳng cấp đã gây ra một cú sốc rất lớn cho những đẳng cấp trên. Tình trạng oán ghét việc Đức Phật phản đối chế độ phân chia đẳng cấp đó kéo dài dai dẳng. Thậm chí, mười ba thế kỷ sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, triết gia lỗi lạc của Ấn Độ giáo là Mimarhsaka đã tuyên bố rất thiếu thiện chí về hành động tôn trọng con người của Đức Phật: “... Vì Đức Phật dạy học thuyết của ngài cho những kẻ ngu ngốc
là Sudra, nên sự dạy dỗ của ngài cũng giả tạo như một đồng tiền giả”(1).
Sự kiện điển hình thể hiện lòng tôn trọng đối với tất cả mọi người, đặc biệt là những người cùng khổ của Đức Phật là việc ngài cho phép người gánh phân Nidà xuất gia. Sự kiện này làm những người bảo thủ ở đẳng cấp trên phẫn nộ. Vua Pasenadi, một vị vua rất sùng kính Đức Phật cũng đến gặp ngài để bày tỏ sự bất bình của mình. Vua nói Đức Phật làm như vậy là gây nên sự ô nhục cho hàng Sa môn và thật là khó khăn cho sự cung kính, lễ bái của hàng vua chúa. Làm sao một vị vua, một vị quan mà phải đi cúi đầu chào hỏi một vị Tỳ kheo có xuất thân thấp hèn? Vua nói cho Đức Phật nghe những hậu quả xã hội sẽ xảy đến do việc làm táo bạo này. Nhưng vua đã lầm, Đức Phật xuất hiện ở đời là để phá bỏ đẳng cấp chứ không phải là để duy trì và bảo vệ chế độ phân biệt đẳng cấp. Để khẳng định một lần nữa tất cả mọi người, dù xuất thân bất kỳ hoàn cảnh, đẳng cấp nào, đều bình đẳng khi gia nhập Tăng đoàn của Đức Phật, ngài đã đem ảnh dụ các dòng sông chảy về đại dương mênh mông để dạy cho các đệ tử: “... Phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati, sông Sarabhù, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, có bốn đẳng cấp này, Brahmin, Kshatriya, Vaisya, Sudra, khi gia nhập vào chúng Tỳ kheo, liền
bỏ tên họ trước, trở thành những Sa môn thích tử”(2).
Một đệ tử rất nổi tiếng khác của Đức Phật cũng xuất thân từ đẳng cấp Sudra, là bậc thầy về giới luật Tăng đoàn, đó là tôn giả
- Sharma Chandradhar (Nguyễn Kim Dân dịch), Triết học Ấn độ, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr. 504.
- Kinh Tiểu Bộ (tập 1), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 217.
Upàli. Nhân một lần gặp Upàli, Đức Phật đã khuyến khích ông xuất gia. Sau khi sống đời tu sĩ, dưới sự dẫn dắt của Đức Phật, Upàli trở thành bậc đứng đầu về giới luật, được tất cả mọi người kính nể, tôn trọng như một bậc thầy trong lĩnh vực này. Vì sự đối xử tôn trọng và bình đẳng của Đức Phật, Tôn giả Upàli đã được khuyến khích và tán dương, nên ông tinh cần và nỗ lực. Kết quả giác ngộ trong cuộc đời tu sĩ của người thợ hớt tóc Upàli thật đáng trân trọng.
Quan điểm của Đức Phật về vấn đề đẳng cấp, giàu sang và nghèo hèn rất rõ ràng. Ngài dứt khóat không phân biệt đối xử và luôn trân trọng với mọi người nếu như những người đó nỗ lực và cố gắng trên con đường làm việc thiện. Khi một vị Brahmin hỏi ngài về vấn đề xuất thân và quan niệm của ngài trong việc này, ngài trả lời: “Này Brahmin, ta không nói tốt hơn vì sinh trong một gia đình cao quý. Này Brahmin, ta không nói xấu hơn vì
sinh trong một gia đình cao quý”(1).
Và đối với Đức Phật sự thấp hèn hay cao quí, sự giàu sang hay cùng khổ đều không có nghĩa gì. Tất cả đều bình đẳng như nhau. Chỉ có hành động, suy nghĩ và lời nói của cá nhân ấy là có thể xác định được cá nhân ấy cao thượng hay thấp hèn. Đức Phật đã tuyên bố một cách rõ ràng và dứt khóat: “Này các Tỳ kheo, các chúng sanh là chủ của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ nương tựa của nghiệp. Phàm họ làm nghiệp gì, thiện
hay ác, họ là những kẻ thừa tự của nghiệp ấy”(2).
- Kinh Trung Bộ (tập 2), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002, tr. 742-743.
- Kinh Tăng Chi (tập 4), Viện Nghiên cứu Phật học tại Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1996, tr. 613.
Đức Phật thể hiện sự tôn trọng tất cả mọi người như một nguyên tắc xử thế của mình. Dù bất cứ người tìm đến gặp là ai, xuất thân như thế nào, chỉ cần có thiện chí là được Đức Phật tiếp chuyện một cách nhiệt tình. Trong cuộc sống khất thực thường nhật, Đức Phật dạy cho đệ tử nguyên tắc tuyệt đối tránh phân biệt đối xử giàu nghèo. Hễ người có tâm thành, thì chư Tăng phải trân trọng. Do việc giáo dục thường xuyên và kỹ lưỡng đó, nên những đệ tử thuần thành của Phật cũng có cách xử thế bình đẳng như ngài. Kinh điển thuật lại, một lần nọ, Đại đức Ananda do khát nước, đã đến xin nước của một cô gái thuộc đẳng cấp tiện dân. Hành động đó khiến cô gái kinh sợ, vì theo luật Manu, người thuộc đẳng cấp hạ tiện không được bước lên chiếc bóng của những người đẳng cấp cao quý, không được học thánh điển, không được sử dụng nước ở những giếng mà đẳng cấp cao quý thường dùng,v.v... Nếu người thuộc đẳng cấp hạ tiện phạm luật này, thường bị xử phạt rất nặng, có khi bị ghép vào tội tử hình. Hành động xin nước của Đại đức Ananda mà cô gái biết rõ xuất thân trước đó là một hoàng tử khiến cô lo sợ. Sau khi trấn tĩnh lại, cô thưa với Ananda là không thể đến gần ông được vì sợ sẽ làm ô uế sự thanh cao của ông. Ananda nhìn cô và bảo, ông chỉ xin nước chứ không xin đẳng cấp của cô gái ấy.
Việc quy định Tăng đoàn sống bằng cách khất thực, có lẽ Đức Phật có một phần ý sâu xa là muốn chư Tăng được tiếp xúc hằng ngày với mọi người để không được quên bổn phận của mình. Trong Tăng đoàn, về phương diện xã hội học, phần đông thuộc về những đẳng cấp cao trong xã hội Ấn Độ, nên ngài luôn dạy về phương pháp và thái độ khất thực rất kỹ lưỡng. Để nhấn mạnh vào việc dứt khóat không được phân biệt đối xử đẳng cấp, phân biệt đối xử sang hèn, ngài đã kể những bài pháp trong Kinh
Tiểu bộ để nhắc nhở chư Tăng không được từ chối những món ăn mà người dâng cúng đã tận tâm cúng dường. Đức Phật biết rõ không phải tất cả các đệ tử của ngài đều là người tốt. Đức Phật sợ có những vị vì tham đắm ẩm thực sẽ làm tổn thương người nghèo khổ cúng dường thức ăn đạm bạc, nhưng lại dâng cúng bằng tất cả thiện tâm. Trong cuộc đời của Đức Phật, ngài sợ nhất là việc làm cho người khác bị tổn thương. Cho nên, Đức Phật muốn đệ tử của mình tránh làm những điều như vậy. Kinh tạng Pàli thuật lại rằng, lúc Trưởng lão Maha Kassapa đã ăn một ngón tay của người cùi vì trong lúc người cùi thành tâm cúng dường cho Maha Kassapa, ngón tay bị đứt ra và rơi vào bình bát.
Trong suốt một cuộc đời bao dung, giản dị và sáng ngời đạo đức của Đức Phật, rất nhiều người thuộc tầng lớp bình dân đã tiếp xúc thân mật với ngài. Đức Phật đã chủ động thiết lập một mối quan hệ đặc biệt với họ, để nâng đỡ tinh thần cho họ. Sau những tháng ngày khổ hạnh, nhờ những bát sữa của nàng Sujata mà ngài nuôi sống được thân thể trong cơn suy kiệt. Và bữa cơm cuối cùng của cuộc đời Đức Phật cũng do một người thuộc đẳng cấp Sudra dâng cúng. Đức Phật đã dùng bữa ăn để người thợ sắt nghèo khổ Cunda vui lòng. Thợ rèn Cunda chuẩn bị bữa cơm cho Đức Phật. Trong bữa cơm ấy, ngài dùng phải một loại nấm rất độc. Sau khi ăn xong, bị ngộ độc dẫn đến bệnh lỵ huyết rất nặng, đau đớn gần như chết, nhưng Đức Phật vẫn cố gắng kiềm chế cơn đau của mình.
Đức Phật không hề tỏ thái độ gì khác lạ với Cunda. Ngài chỉ dặn ông đem số nấm còn lại đi chôn tránh tuyệt đối đừng để ai dùng. Đức Phật không muốn cho Cunda biết ngài đã bị ngộ độc do bữa cơm cúng dường của ông. Ngài sợ làm cho ông phải
sống trong mặc cảm, ân hận và đau khổ, nên khi chào từ biệt ông, bậc thầy vĩ đại của nhân loại đã lặng lẽ lên đường, bước đi trong đau đớn và khó nhọc do độc tố hành hạ. Đức Phật trực chỉ đến Kusinara và nhập Niết Bàn ở rừng cây Sala của bộ tộc Malla.
Tư tưởng chống áp bức, phân biệt và kỳ thị giữa con người và con người của Đức Phật đã có một tác động tốt đẹp vào việc tôn trọng nhân phẩm con người ở những nơi mà những lời dạy cao quý của Đức Phật được tôn trọng. Tư tưởng ấy, đã bùng lên ở thế kỷ thứ VI trước Công nguyên tại xã hội Ấn Độ. Đẳng cấp cùng đinh được giải phóng trong mười lăm thế kỷ, sau đó lại rơi vào tình trạng nô lệ như xưa. Nhưng ngày nay, tư tưởng tự do và bình đẳng đã bắt đầu sống trở lại trong xã hội của Ấn Độ.
-
- Ứng xử với các thế lực, phe phái đối lập
Sinh thời, học thuyết của Đức Phật có sáu triết thuyết đối lập thường hay tìm cách phủ nhận. Sự phủ nhận của các học thuyết ấy đối với Đức Phật bằng nhiều hình thức. Tuy trong sáu vị giáo chủ nổi danh ấy, chưa có vị nào diện kiến Đức Phật, nhưng đệ tử của họ lại thường xuyên đến chất vấn ngài. Để tránh những buổi tranh luận không đi đến đâu, Đức Phật thường tuyên bố: “Như Lai không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Như Lai”. Sáu vị giáo chủ cùng thời với Đức Phật là Pùrana Kassapa, Makkhali Gossala, Ajita Kesakambalin, Pakhuda Kaccàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàtaputta có quan điểm rất khác xa nhau và rất khác xa Đức Phật trên mọi phương diện. Đức Phật không bao giờ chủ động tìm đến khiêu khích và luận chiến với các triết thuyết đối lập, và cũng không tỏ ý khinh chê hay nói xấu họ. Có lẽ, việc tránh những cuộc tranh luận
không đi đến đâu và không lợi ích gì là một trong những nguyên tắc sống của ngài. Mặc dù chưa một lần tranh luận với lục sư ngoại đạo, nhưng Đức Phật luôn cho rằng, lý thuyết của họ không nhằm đoạn tận đau khổ, và không thể đưa đến được hạnh phúc chân thật. Tuy quan niệm như vậy, nhưng ngài luôn tỏ ra rộng rãi với họ trong cuộc sống bằng việc khuyến khích các đệ tử của mình nên bố thí vật thực cho các tu sĩ ngoại giáo, tránh đừng để cho họ bị đói rét và đừng xúc phạm phỉ báng họ. Cách cư xử đó rất cao thượng, bởi lẽ xét về mặt ảnh hưởng xã hội Lục sư ngoại đạo không có uy tín bằng ngài và lại luôn tìm cách làm hại thanh danh ngài, nhưng Đức Phật vẫn đối xử rất rộng rãi với họ.
Những đệ tử của Lục sư ngoại đạo đến chất vấn Đức Phật và kinh tạng Pàli đã ghi lại những đoạn đối thoại ấy một cách khúc chiết, tất cả những vị ấy đều chưa có ai vượt qua được trí tuệ của ngài. Cách đặt câu hỏi sắc sảo của ngài xoáy sâu vào mâu thuẫn nội tại trong những luận đề của người đối diện khiến họ bối rối vô cùng. Có vị tức giận vì bị Đức Phật đánh đổ trong luận thuyết đã đi tìm ngay đệ tử của ngài và nói xấu như sau: “Sa môn Gotama không giỏi điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến những vấn đề ngoại biên. Cũng như
con bò một mắt, đi vòng tròn và chỉ đi bên ngoài”(1).
Đó là lời bình luận của du sĩ Nigrodha với Phật tử Sandhana về Đức Phật. Bất mãn hơn Nigrodha, du sĩ Vekhanassa sau khi chất vấn và thất bại trong việc làm Đức Phật mất bình tĩnh, nên ông đã cay đắng thóa mạ ngài. Kinh điển Pàli tường thuật lại chi tiết chuyện đó như sau: “... Du sĩ Vekhanassa,
phẫn nộ và bất mãn, mắng nhiếc cả Thế Tôn, miệt thị cả Thế Tôn và nói: “Sa môn Gotama sẽ bị đọa lạc”(1). Mặc cho những lời thóa mạ trên, ngài vẫn không hề bị kích động, vì có một trí tuệ sắc sảo, một tác phong tranh luận có tính văn hóa cao như vậy, nên Đức Phật luôn tự tin và điềm tĩnh trong khi tranh luận. Một điểm rất đặc biệt trong văn hóa đối thoại của Đức Phật, đó là việc giải đáp thẳng vấn đề, nếu như ngài chấp nhận vấn đề đó. Nếu không chấp nhận, ngài sẽ gác chúng sang một bên bằng thái
độ im lặng. Đức Phật chưa bao giờ khiêu khích hoặc tỏ ra miệt thị bất cứ một thành phần đối lập nào cả. Thái độ tranh luận đó, chứng tỏ ngài đã sở hữu một tinh thần tự chủ vững vàng. Theo ngài, người đối thoại với nhau phải có thiện chí, nếu có tranh luận là cũng tranh luận trong thiện chí và hiểu biết. Ngài đã tuyên bố về thiện chí trả lời ngay tại chỗ và thẳng thắn của mình nếu như câu hỏi đó đáng được trả lời. Ngài đã nói với vương tử Abhaya khi vương tử theo lệnh của sư phụ mình là Nigantha Nàtaputta đến chất vấn Đức Phật về thái độ tranh luận và cách thức trả lời tranh luận. Vương tử yêu cầu ngài cho biết chủ kiến về vấn đề này. Đức Phật trả lời: “Này vương tử, những Kshastriya, những Brahmin, những gia chủ, những sa môn, sau khi soạn sẵn câu hỏi sẽ đến Như Lai và hỏi, Như Lai sẽ trả lời
ngay tại chỗ”(2).
Cách cư xử của Đức Phật trước những câu hỏi mà ngài không chấp nhận, không phải lúc nào cũng là im lặng. Sự phản ứng khác biệt phụ thuộc vào hoàn cảnh của đối tượng chất vấn ngài. Nếu đối tượng ấy để tranh luận hơn thua với ngài, khi họ đưa ra những câu hỏi mà ngài không chấp nhận, thì ngài phản
1 Kinh Trung Bộ (tập 2), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002, tr.473.
ứng bằng thái độ im lặng. Nếu đối tượng ấy hỏi để nâng cao nhận thức, ngài liền phản ứng trước những câu hỏi đó bằng cách trả lời “thôi đủ rồi” để tỏ ý không muốn nói về vấn đề đó. Nếu có những trường hợp có thiện chí thật sự, nhưng cứ hỏi đi hỏi lại mãi về vấn đề mà ngài không muốn trả lời, thì rốt cuộc ngài cũng sẽ giải thích cho họ. Kinh tạng Pàli thuật lại trường hợp hai du sĩ ở thành Koliya là Punna Koliyaputta tu theo hạnh con bò và du sĩ Seniya tu theo hạnh con chó. Họ cứ chất vấn Đức Phật liên tục về những vấn đề xoay quanh cách tu lập dị của họ. Sau nhiều lần từ chối không được, Đức Phật đã kiên nhẫn trả lời chứ không hề tỏ thái độ im lặng thường thấy ở ngài. Câu trả lời của ngài rất thật, thật đến độ gây sốc rất nặng cho hai du sĩ kia. Họ cảm thấy đau đớn khi nghe Đức Phật trả lời về kết quả tu hành của họ. Ngài bảo: “Này Punna, thật sự ta đã không chấp nhận câu hỏi của ông và ta đã nói “thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi ta nữa”. Tuy vậy, ta sẽ trả lời cho ông. Ở đây này Punna, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn,
sau khi mạng chung sẽ sanh cùng với các loài chó”(1).
Trường hợp có những du sĩ đến chất vấn Đức Phật, sau khi đối thoại, họ cảm phục và tỏ lòng muốn học hỏi giáo pháp của ngài. Mặc dù họ là những người có trí tuệ, nhưng họ vẫn thật lòng thưa với Đức Phật là họ không hiểu và không thể lãnh hội được những điều Phật nói. Du sĩ Nigrodha là một trong những trường hợp điển hình nhất của những trường hợp đó. Đức Phật đã xử sự với một thái độ hiểu biết và thông cảm. Ngài bảo: “Này Nigrodha, thật khó cho ngươi, khi ngươi theo các kiến giải sai
khác, theo dõi những mục tiêu khác, theo đuổi những mục đích sai khác để hiểu được pháp nào ta dạy các đệ tử của ta”(1).
Ngài không những tỏ ra thông cảm như vậy, mà còn khuyến khích người đó nên hỏi và bàn luận về những vấn đề mà người ấy vốn quen thuộc, như vậy họ sẽ đỡ khó khăn hơn khi tiếp cận tư tưởng của ngài. Ngài đã khuyên họ rất chí tình: “... Hãy hỏi về tối thắng khổ hạnh theo truyền thống của ngươi”(2).
Cách ứng xử đó thể hiện bản lĩnh văn hóa của Đức Phật. Các du sĩ thời ngài hay tranh luận với nhau theo phương cách bảo vệ quan điểm của mình đến tận cùng và chê bai quan điểm của người khác. Họ dùng trăm phương nghìn kế để chiến thắng nhau, dù sự chiến thắng ấy chẳng đưa họ đi đến đâu. Trong bầu không khí luận chiến mang tính mạnh được yếu thua như vậy, Đức Phật khuyên người đối thoại với ngài nên tìm hiểu kỹ về truyền thống của anh ta. Cách ứng xử khôn ngoan đó thể hiện từ sự bao dung tư tưởng. Và từ sự bao dung tư tưởng đó, có thể hiểu được ngài chưa bao giờ có ý định phủ nhận quan điểm của người đối diện và áp đặt quan điểm của mình lên họ. Phong cách đối thoại của Đức Phật rất gần gũi với quá trình “cá nhân tự nhận thức”. Ngài chỉ gợi mở và chỉ đường cho họ. Ngài chỉ mời họ “hãy đến và thấy”, chỉ đơn giản như vậy. Xuất phát từ cách ứng xử đơn giản và nhân bản trong khi đối thoại với những người bất đồng quan điểm đó mà lịch sử Phật giáo hơn hai mươi lăm thế kỷ qua chưa hề ghi nhận một trường hợp bị cưỡng bức theo Phật giáo, dù bằng cách này hay cách khác. Có thể chính thái độ văn hóa, tôn trọng các truyền thống khác đó, nên Phật giáo chưa bao
1 Kinh Trung Bộ (tập 2), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002, tr.325.
giờ gây ra một cuộc chiến tranh nào vì niềm tin của mình. Ngay cả thời huy hoàng nhất của Phật giáo Ấn độ, Phật tử Asoka vẫn khuyến khích các truyền thống tôn giáo khác phát triển. Những dòng chữ khắc trên những trụ đá đã thể hiện được tinh thần khoan dung, tư tưởng của vị hoàng đế tiếp nối tinh thần của Đức Phật. Có thể nói qua hơn hai mươi lăm thế kỷ truyền đạo, Phật giáo chưa bao giờ khiến bất cứ một ai phải đổ máu hay nhỏ một giọt nước mắt vì niềm tin của mình.
Trên cương vị của một giáo chủ lãnh đạo giáo hội, thỉnh thoảng ngài vẫn dùng những biện pháp tình thế để đối phó với vu khống và cáo buộc nhằm làm sáng tỏ uy tín của chánh pháp. Mặc dù ngài luôn nói hãy thản nhiên và bình tĩnh trước sự cáo buộc, rồi sự cáo buộc vô lý đó sẽ dần tiêu tan. Nhưng cũng có trường hợp được Phật biện minh cho mình và cho Tăng đoàn bằng lời nói hoặc hành động. Tuy nhiên, ngài chỉ sử dụng chúng trên phương diện để làm sáng tỏ chân lý, chứ không nhằm mục đích tranh thắng bại và làm tổn thương những người nhục mạ ngài và Tăng đoàn. Cách ứng xử tùy theo trường hợp như vậy, cho thấy một bản lĩnh trí tuệ và văn hóa cao thâm của ngài. Đối với những sự cáo buộc, vu khống, có trường hợp ngài lãnh đạm, nhưng cũng có trường hợp ngài đã không im lặng. Khi tìm hiểu về thái độ ứng xử của Đức Phật trước vấn đề mạ lỵ và cáo buộc, chúng ta sẽ thấy tồn tại một nghịch lý trong văn hóa ứng xử của ngài. Đối với những cáo buộc nguy hiểm và mang tính sống còn, ngài giữ thái độ im lặng cao thượng. Nhưng đối với những cáo buộc ít nguy hiểm hơn thì ngài lại giải thích. Những câu chuyện về những trường hợp cư xử của Đức Phật với vấn đề nhục mạ và cáo buộc sau đây sẽ làm rõ hơn về nhận định trên.
Ngài thành lập Tăng đoàn, chủ trương cho các đệ tử xuất gia sống thóat ly gia đình để tiện việc thực hành đạo pháp. Nhưng những phần tử chống đối đã cáo buộc ngài rất gay gắt. Họ bảo: “Sa môn Gautama sống bằng cách làm cho người ta tuyệt tự, vợ góa con côi, gia đình ly tán”. Đối với những cáo buộc cốt lõi và gay gắt như vậy, ngài vẫn bình thản như không. Thực tế, ngài đã không hề trả lời hay biện giải gì về chuyện này cả. Rõ ràng, phần sai đã thuộc về những người cáo buộc. Bởi lẽ, đứng trên lý thuyết “sự phân công xã hội” của xã hội học hiện đại thì trong xã hội, mỗi cá nhân đều có một chức năng riêng và dứt khóat không thể xảy ra trường hợp tất cả mọi cá nhân trong xã hội cùng thực hiện một chức năng. Bản thân của xã hội sẽ có sự “điều chỉnh tự nhiên của mình”. Không thể có xã hội nào chỉ toàn là giáo sư, hoặc không thể có xã hội nào mà mọi thành viên đều là phần tử phiến loạn hoặc là tu sĩ. Đây là cách lý giải xã hội của những người sống sau ngài hơn hai mươi thế kỷ. Sinh thời, ngài có cùng quan điểm trên vấn đề này với chúng ta ngày nay không thì không thể xác định được, vì không có kinh sách nào bảo là Ngài đã từng tuyên bố một quan điểm hiện đại như vậy. Nhưng phong cách ứng xử của ngài trong vấn đề này đã thể hiện một trình độ văn hóa rất sâu sắc, ngài đã bình thản im lặng trước sự cáo buộc sai lầm đó.
Đức Phật đã nói rõ trong những trường hợp như sau thì đệ tử xuất gia của ngài được tỏ thái độ chối từ bằng cách úp ngược bình bát. Những thái độ đó, theo Ngài: “cố gắng đem lại thiệt hại cho các Tỳ kheo, cố gắng đem lại bất lợi cho các Tỳ kheo, cố
gắng đuổi... không cho trú ở, mắng nhiếc chỉ trích các Tỳ kheo”(1).
Việc dân chúng vì bất đồng quan điểm, hoặc vì đói kém mà không chia sẻ vật thực cho chúng Tăng không phải là điều không xảy ra. Sự việc Đức Phật sau khi nhịn đói nhiều ngày cùng với Ànanda đã được những người chăn ngựa cho ngài một ít cám ngựa và ngài đã ăn nó một cách ngon lành. Việc ngài ăn cám ngựa trong niềm vui vẻ nói lên rất nhiều điều, mà điều quan trọng nhất, ngài dùng nó vì sự thành tâm của những người dâng cúng chứ chưa hẳn là vì đói. Vì nếu như bị thúc bách vì cái đói, ngài có thể lên đường đi xứ khác để sống dễ dàng hơn. Việc làm cảm động này của ngài, diễn ra tại thành Veraũja.
Tuy những lời minh định lập trường theo quan điểm trung đạo của Đức Phật là dứt khóat và rõ ràng, nhưng những phần tử không ưa ngài vẫn không ngừng đi từ thành này qua thành khác vu khống. Họ tuyên truyền với dân chúng rằng, Đức Phật là kẻ lường gạt siêu hạng, rằng ngài thuyết pháp chẳng phải vì giúp đỡ cho mọi người biết cách sống thương yêu và hạnh phúc, mà chẳng qua là vì đam mê tiền bạc vật chất. Những lời buộc tội đó, không phải là không có tác dụng. Vì để thức tỉnh những người nhẹ dạ, giúp họ nhận thức vấn đề một cách đúng đắn, ngài đã ứng xử với những vu khống đó bằng lời nói như sau: “Như Lai không vì mục đích lường gạt quần chúng, không vì mục đích nịnh hót quần chúng, không vì mục đích lợi lộc, trọng vọng,
danh xưng, quyền lợi vật chất”(2).
-
-
Kinh Tăng Chi (tập 4), Viện nghiên cứu Phật học tại Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1996, tr.55-56.
- Kinh Tăng Chi (tập 1), Viện nghiên cứu Phật học tại Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1996, tr. 279.
Sự việc không hề dừng lại ở sự tuyên truyền, vu khống và nhục mạ. Những giáo sĩ Brahmin biến chất thời đó còn quyết tâm hãm hại uy tín của Đức Phật bằng nữ sắc. Họ đã thuê cô Cinca một số tiền để cô lập mưu thực hiện việc hạ bệ uy tín của ngài. Cô bắt đầu thực hiện âm mưu của mình bằng cách giả vờ đóng vai một nữ thí chủ chuyên cần. Cô luôn đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi đêm xuống, cô sang những nơi cư ngụ của những tu sĩ Brahmin đồng mưu với cô để qua đêm. Vì những am cốc ấy rất gần với tịnh xá của Đức Phật, nên mỗi sáng cô đều tạo cơ hội cho mọi người thấy là mình từ hướng tịnh xá của ngài đi ra. Cô âm thầm chuẩn bị như vậy và chờ dịp thật tốt để hạ nhục ngài. Dịp ấy rồi cũng đến. Nhân lúc Đức Phật đang thuyết pháp trước một hội chúng đông người, cô đứng dậy, cắt ngang lời ngài và vu cáo ngài là một kẻ bạc tình đốn mạt, đã làm cho cô bụng mang dạ chửa mà chẳng lo lắng gì cho cô và đứa con sắp chào đời. Những Phật tử rất hoang mang, bởi lẽ họ đã rất nhiều lần thấy từ sáng sớm tinh mơ cô thường từ hướng tịnh xá của Phật đi ra. Liên kết những sự kiện lại, họ cảm thấy không phải lời vu cáo của cô là không có lý. Đáp lại những lời cáo buộc đó, Đức Phật im lặng mỉm cười. Thái độ im lặng mỉm cười đó thật là khó hiểu, có lẽ chỉ có những con người cực kỳ bản lĩnh về việc chế ngự cảm giác mới làm được như vậy. Ngài mỉm cười vì ngài thừa biết rằng đối với sự cáo buộc này, mọi biện minh ngôn từ đều trở nên bất lực và vô ích. Với lòng can đảm phi thường, Đức Phật đã không hề run sợ trước sự vu khống nguy hiểm đó. Con người đã can đảm từ bỏ tất cả những gì mình yêu dấu để đi tìm một tình thương rộng lớn như ngài thì làm sao có thể run sợ trước những chuyện như vậy. Thật may mắn, do việc ứng xử quá đà, nên khúc gỗ mà Cinca độn trong bụng đã rớt ra dưới chân cô. Không
một lời thanh minh, cũng không một lời oán trách, Đức Phật đã được minh oan trong một tình huống bất ngờ như vậy. Bản thân câu chuyện này nói lên hai vấn đề. Thứ nhất, rõ ràng là Đức Phật đã cư xử thật thông minh và can đảm với sự vu khống này. Thứ hai, phải thừa nhận là ngài và Tăng đoàn vẫn còn một chút may mắn. Bởi lẽ, nếu như Cinca và các đạo sĩ Brahmin sâu sắc hơn, chu đáo hơn mà cho cô ấy mang một cái bầu thật để vu cáo Đức Phật thì có lẽ vấn đề đã không hề đơn giản như kinh điển đã ghi lại. Dĩ nhiên, cuối cùng rồi chân lý cũng sẽ toàn thắng và sự gian dối sẽ bị phơi bày. Nhưng để đến khi sự thật ấy được phơi bày vì một lý do nào đó, làm sao có thể đoán chắc được là Đức Phật và Tăng đoàn sẽ không bị ngược đãi do sự hiểu lầm của nhà vua và dân chúng?
Nếu như trong trường hợp của Cinca, Đức Phật cư xử bằng cách im lặng mỉm cười, thì ngược lại trong trường hợp của nàng Sundari, ngài lại cư xử hoàn toàn khác hẳn. Đức Phật đã triệu tập Tăng chúng, dạy cho họ thái độ để cư xử với hậu quả của việc vu khống và ngài đã trấn an họ. Việc nàng Sundari là một việc không chỉ gây kinh hoàng trong Tăng đoàn mà còn ảnh hưởng sâu xa đến tình cảm của toàn thể dân chúng thời bấy giờ. Sự việc bắt đầu từ những giáo sĩ Brahmin kém giới hạnh đã thuê người hiếp và giết nàng Sundari rồi lén lút đem chôn trong vườn của tịnh xá Jetavana, sau khi đã chôn nàng xong, vài ngày sau lại cho người đến giả vờ phát hiện và khai quật thi thể cô gái xấu số lên. Họ vu cáo Đức Phật và các cao đồ của ngài đã hãm hiếp và giết chết Sundari rồi chôn trong khu vườn của tịnh xá để phi tang. Sự việc gây ra một sự chấn động xã hội sâu sắc chưa từng thấy, cộng thêm với việc lợi dụng ghê tởm xác chết của cô gái xấu số để nhục mạ Đức Phật, họ đã gần như thành công trong việc chủ
mưu làm cho mọi người ở Savatthi oán ghét Đức Phật và các đệ tử của ngài. Kinh tạng Pàli đã mô tả lại sự việc đó như sau: “Các du sĩ ngoại đạo ấy đã đi tìm ở Jetavana, đào mương tại chỗ đã quăng nàng xuống, đặt nàng lên giường, đi vào Savatthi từ đường này sang đường khác, từ ngã ba này đến ngã ba khác. Họ làm cho dân chúng tức giận và nói rằng: Các ông hãy xem công việc làm của các thích tử! Vô liêm sỉ là các Sa môn thích tử... sống theo ác giới... sau khi làm xong phận sự của đàn ông, họ
đoạt mạng sống của nữ nhân này”(1).
Những tu sĩ Brahmin vừa cho người khiêng xác nàng đi vừa rêu rao như vậy. Dân chúng Savatthi hiếu kỳ bỏ việc đi theo sau họ, tạo thành một đám đông hỗn loạn chưa từng thấy. Uy tín của Đức Phật và Tăng đoàn chưa bao giờ xuống thấp như những ngày tháng này. Quá đau lòng vì điều đó, vua Pasenadi một người rất hiểu Đức Phật và là đệ tử trung thành của ngài lập tức cho mở cuộc điều tra để minh oan cho Đức Phật và Tăng đoàn. Trong những ngày tháng gian khổ và nguy nan đó, thái độ ứng xử điềm tĩnh và trí tuệ của Đức Phật đã làm vững lòng các đệ tử của ngài. Ngài đã trấn an các đệ tử của mình như sau: “... Này các Tỳ kheo, tiếng đồn sẽ không còn tồn tại lâu dài, chỉ có một
tuần thôi, sau một tuần sẽ biến mất”(2).
Trước những cáo buộc và vu khống dồn dập như vậy, Đức Phật vẫn không hề bị dao động. Ngài luôn ứng xử kịp thời và sáng suốt tùy theo từng tình huống cụ thể. Điều khiến chúng ta khâm phục nhân cách của ngài là ngài luôn bình tĩnh một cách cao thượng trước những nghịch cảnh. Khi những nghịch cảnh đã
-
Kinh Tiểu Bộ (tập 1), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.195.
- Kinh Tiểu Bộ (tập 1), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.196.
qua đi, ngài cũng không hề tỏ thái độ đắc thắng. Trong tâm ngài, trong nhân cách văn hóa của ngài, luôn ẩn chứa một sức mạnh vĩ đại của sự minh triết. Sự minh triết đó, cộng với một trái tim thương yêu tất cả mọi người đã đưa ngài vượt qua mọi khó khăn. Thái độ văn hóa của Đức Phật trước những vu khống và cáo buộc sẽ là một bài học sâu sắc cho những ai quan tâm và tôn trọng nhân cách văn hóa của ngài. Đức Phật luôn vững niềm tin ở sự trong sạch của mình và của con người. Theo ngài, nếu chúng ta thật sự trong sạch thì mọi sự vu khống rồi cũng sẽ tiêu tan. Ngài bảo kẻ vu khống và mạ lỵ người khác, như người đi ngược gió và tung bụi trên tay, bụi sẽ bay thẳng vào mắt của người ấy. Quan niệm ấy của ngài chưa chắc đã đúng trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp, nhưng một điều không thể phủ nhận được là giá trị nhân bản của niềm tin ấy thật sâu sắc và đáng được trân trọng.
Lúc Đức Phật trở về già, trong Tăng đoàn có những ý kiến chống đối. Có người còn dẫn một nhóm Tỳ kheo trẻ về thường trú ở quê và đi với người vợ cũ như thuở chưa là tu sĩ. Biết được việc đó, Đức Phật cho người đi triệu tập vị tu sĩ phóng túng ấy về. Ngài chính thức tước quyền làm tu sĩ của ông ấy, nghĩa là ngài khai trừ vĩnh viễn cá nhân ông ấy ra khỏi Tăng đoàn. Qua trường hợp đó, Đức Phật cảm thấy cần phải có những chế tài nhất định với các tu sĩ trong những hành vi thường nhật của đời sống. Giới dâm của nhà Phật đã được Đức Phật chế định trong hoàn cảnh như vậy. Một trường hợp phạm vào tội trộm cắp cố ý nữa của một vị tu sĩ cũng được Ngài xử lý thật nghiêm khắc. Diễn tiến câu chuyện bắt đầu từ việc Tỳ kheo Dhaniya muốn xây cho mình một nơi trú ngụ, ông đã nói dối người giữ kho gỗ của Bimbisàra là ông đã được phép vua cho ông lấy gỗ ở kho này,
trong khi thực tế là không phải như vậy. Vụ việc bị phát giác, quần thần đề nghị nhà vua xử tội vị tu sĩ để giữ vững phép nước. Nhưng Bimbisàra vì lòng tôn trọng Đức Phật đã giao vị tu sĩ thiếu đạo đức ấy về cho Đức Phật xét xử. Ngay lập tức, hội đồng giám luật Tăng chúng được triệu tập để xét xử vị tu sĩ trên. Đức Phật kết luận việc cố ý lừa gạt của tu sĩ Dhaniya là một hình thức tinh vi của trộm cắp, ngài thay mặt Tăng đoàn quyết định vĩnh viễn khai trừ vị tu sĩ thiếu đạo đức này.
Trong những đệ tử chống đối ngài, nổi bật nhất và đặc biệt nhất là Devadata. Tỳ kheo Devadata đã dùng mọi thủ đoạn hèn hạ nhất để hãm hại Đức Phật. Dĩ nhiên là không trừ cả hành động thuê người ám sát ngài. Devadata, con người nổi danh vì những mưu toan thấp hèn với bậc thầy đáng kính của mình cũng có thể xếp ngang hàng với Juda kẻ sống sau ông ta năm thế kỷ ở vùng Jerusalem cũng đã nổi danh vì hành động tương tự với Chúa Jesus. Thoạt đầu, khi mới gia nhập đời sống Tăng đoàn, ông ta sống tốt đến độ chính Đức Phật đã nhiều lần nêu gương ông trước mặt mọi người. Nhưng càng về sau, con người của Devadata ngày càng trở nên biến chất. Ông chủ trương sách động sự chia rẽ và nói xấu Đức Phật bất kỳ lúc nào có thể. Không dừng lại ở việc nói xấu, một hôm, trước sự hiện diện của tất cả mọi người, Devadata ngạo mạn đề nghị với Đức Phật là hãy giao sứ mệnh lãnh đạo Giáo hội lại cho mình. Mọi người có mặt lúc đó đều bàng hoàng vì sự hỗn láo đó, nhưng Đức Phật vẫn điềm đạm trả lời là ngài khômg thể giao trọng trách đó cho ông.
Đức Phật nói như vậy, nhằm khuyên Devadata là nên từ bỏ ý định ngông cuồng. Sau đó, ngài vẫn cư xử với ông một cách
bình thường. Nhưng Devadata đem lòng oán hận Đức Phật, quyết tâm phá hoại Tăng đoàn để Đức Phật cảm thấy tuyệt vọng mà chết. Vì thiếu hiểu biết, có một số tu sĩ trẻ đã nghe lời rủ rê đã rời bỏ Tăng đoàn mà đi theo Devadata, nhưng Đức Phật đã phái Sàriputta và Moggalàna đi dẫn dắt những Tỳ kheo lầm lạc ấy trở về với chánh pháp. Thấy đòn hiểm cuối cùng thất bại, Devadata quyết tâm hạ sát ngài. Kinh điển thuật lại Devadata, được sự giúp đỡ của vua Ajàtasattu đã ba lần tổ chức ám sát Đức Phật nhưng đều thất bại. Chỉ có một lần duy nhất mà Devadata sắp thành công là ông lăn một tảng đá to từ trên núi đổ xuống để đè ngài. May mắn, Đức Phật không bị thương tổn nào đáng kể ngoài việc chảy máu nơi bàn chân.
Một con người ngông cuồng, ác độc, không kể thủ đoạn như vậy nhưng Đức Phật vẫn không bỏ rơi ông. Có thể nói, ông đã gây ra vô số khổ đau cho ngài nhưng ngài chưa bao giờ oán hận ông. Cách cư xử cao thượng đó, khiến Devadata khi lâm bệnh sắp chết đã tỏ ra ăn năn hối hận vô cùng. Ông cố gắng đến Trúc Lâm tịnh xá để cầu xin Đức Phật tha tội, mà ông không hề biết rằng, ngài chưa bao giờ hận thù ông để phải nói lời tha thứ.
- Kết luận
Hơn hai mươi lăm thế kỷ trước, tại Ấn Độ, một nhân cách văn hóa vĩ đại của nhân loại đã ra đời. Sự xuất hiện của Đức Phật đã tạo ra một cuộc cách mạng lớn lao trong tiến trình lịch sử văn hóa của dân tộc Ấn Độ và toàn nhân loại. Những lời dạy cao quý của Đức Phật đã chinh phục được nhiều dân tộc, nhiều vùng đất khác nhau trên thế giới, khiến cho nhân loại thức tỉnh và nhìn lại những giá trị của mình. Những lời dạy của Đức Phật làm cho chúng ta nhận ra rằng cần phải đối xử với nhau một cách hòa nhã
và trân trọng, vì chỉ có tình thương và lòng bao dung mới chinh phục được và chiến thắng được hận thù.
Cuộc đời của Đức Phật đã làm những sự từ bỏ rất vĩ đại. Đó là sự từ bỏ gia đình, ngôi báu, quyền lực,... để dấn thân vào cát bụi tìm một con đường mang đến hạnh phúc cho nhân loại. Ngài đã từ bỏ bản ngã, quên mình để phục vụ tha nhân. Chính văn hóa từ bỏ ấy của Đức Phật đã có những ảnh hưởng rất sâu sắc, hình thành nên lối sống vị tha ở những con người tin phục nhân cách của ngài.
Đức Phật đã có những ứng xử độc đáo và nhân bản với tất cả các đối tượng từ thiên nhiên, muông thú cho đến những mối quan hệ đối với nhân quần và xã hội.
Sự phản đối của Đức Phật đối với cái ác và chiến tranh, cộng với lòng từ bi và yêu chuộng hòa bình là một tấm gương sáng. Trong thời đại chúng ta đang sống, chiến tranh và xung đột xảy ra khắp nơi, nhân loại chưa có một ngày yên bình thật sự. Đối diện với những đau khổ do tham lam và thù hận gây nên, nếu như chúng ta biết tự kiềm chế mình hơn như lời dạy của Đức Phật kêu gọi, thì chắc chắn nhân loại sẽ bớt được đau khổ.
Hơn lúc nào hết, sự hiện diện nhân cách văn hóa từ bi, trí tuệ, bao dung và tràn đầy nghị lực của Đức Phật là rất cần thiết cho nhân loại. Chiến tranh xung đột và hận thù phát xuất từ lòng tham lam và sự độc ác. Chúng ta nên học hỏi từ lòng bao dung của Đức Phật, bài học về sự tha thứ để xây dựng cuộc sống trở nên hòa bình, ấm no và hạnh phúc.
Đức Phật một người xuất thân từ đẳng cấp vua chúa lại từ bỏ quyền lực để sống cuộc đời của một du sĩ lang thang. Ngài đã
đưa ra thông điệp “mọi người đều bình đẳng”. Lòng nhân đạo và tinh thần giải phóng con người của ngài rất đáng được trân trọng.
Đức Phật đã cư xử bao dung với tất cả, tha thứ với tất cả, vượt qua tất cả. Vì những sự vĩ đại đó của nhân cách văn hóa của Đức Phật và trong giáo pháp của ngài, nên việc noi gương ngài vẫn luôn là sự chọn lựa của những con người biết thương yêu và quý trọng sự sống.