Trong bài tham luận này, chúng tôi tìm hiểu tính nhân bản của đạo đức Phật giáo Nam tông nói chung, Phật giáo Khmer nói riêng theo năm giới luật cơ bản của Phật giáo và qua một số Kinh tạng Pali như Kinh Pháp Cú (Dharmapada), Kinh Tăng Chi Bộ, Kinh Mi Tiên vấn đáp, Kinh Trung Bộ,v.v…
Từ xưa tới nay, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài Phật giáo quan tâm đến khía cạnh nhân bản của đạo đức học Phật giáo, đặc biệt là những lời nói của Đức Phật còn được lưu giữ lại một cách chân thật và sống động thông qua các bộ kinh tạng Pali của Phật giáo Nam tông. Chúng tôi là thế hệ những người nghiên cứu đi sau, được may mắn đọc nhiều kinh tạng Phật giáo Pali thông qua những bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu.
Đến nay, vấn đề đạo đức trong Phật giáo, dù Phật giáo Bắc tông hay Phật giáo Nam tông, có tính thống nhất và ít bị tranh cãi nhất. Lý do, vì đạo đức Phật giáo dựa trên mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Năm giới theo Phật giáo, dù Nam tông hay Bắc tông đều thống nhất, gồm:
- Không sát sinh mà lại phóng sinh, tôn trọng sự sống của muôn loài.
- Không lấy của không cho mà lại bố thí.
* Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
** Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
- Không tà dâm, mà sống theo nếp sống trong sáng, chánh hạnh.
- Không nói dối, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời đoàn
kết.
- Không uống các chất say, lúc nào cũng ăn uống điều độ,
giữ gìn thân thể khỏe mạnh, trí óc sáng suốt tỉnh táo.
Đức Phật nói, đạo đức không phải là quan hệ giữa thần thánh với con người, mà là quan hệ giữa những con người với nhau. Nói cách khác, đạo đức phát sinh từ những hành vi ứng xử giữa con người với con người. Hơn thế, Đức Phật và Phật giáo còn mở rộng đạo đức là mối quan hệ giữa con người với các loài hữu tình khác.
Mọi Tăng ni và Phật tử đều sống theo năm giới và mười thiện là yêu cầu sơ đẳng nhất, cũng là căn bản nhất của người con Phật. Đức Phật từng thuyết pháp như vậy trong Kinh Tăng Chi Bộ: nếu một người sống theo năm pháp ác như sát sanh, lấy của không cho, sống không phạm hạnh, nói láo, đắm say trong rượu sẽ bị rơi vào Địa Ngục; ngược lại sống theo năm pháp thiện như từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ không phạm hạnh, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say trong rượu sẽ được sanh lên cõi Trời. Trong Phẩm Năm pháp, Đức Phật thuyết rằng:
“Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy tương xứng bị rơi vào Địa ngục. Thế nào là năm pháp? Sát sanh; lấy của không cho; sống không Phạm hạnh; nó láo; đắm say rượu men, rượu nấu. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ - kheo, Tỷ-kheo như vậy tương xứng bị rơi vào Địa ngục. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy tương xứng
được sanh lên cõi trời. Thế nào là năm pháp? từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ không phạm hạnh, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới”(1).
Chúng ta thấy rằng, Đức Phật luôn nhắc năm giới này (năm pháp) luôn gắn liền với nhau. Việc chia ra từng giới (pháp) để phân tích dưới đây chỉ là cách làm để có thể hiểu rõ hơn năm giới của Phật giáo.
- Giới không sát sinh mà lại phóng sinh, tôn trọng sự sống của muôn loài
Không sát sanh là giới luật đầu tiên trong năm giới luật cơ bản nhất của Phật giáo, dù Nam tông hay Bắc tông. Để trở thành một Phật tử, việc đầu tiên là thực hành giới không sát sinh và bốn giới cơ bản còn lại. Để trở thành Sa di thì phải thọ nhiều giới hơn, Tỳ kheo phải giữ 250 giới,v.v… Giới không sát sinh không chỉ dành cho Phật tử, mà còn dành cho tất cả người bình thường khác không phải là Phật tử. Tất cả chúng ta, những con người bình thường trong xã hội sẽ không lấy việc sát sanh làm niềm vui, làm sở thích. Việc sát sanh mang lại nhiều hệ quả bất hạnh cho đồng loại và các loài hữu tình. Phật giáo kịch liệt phản đối việc đi săn bắn thú để làm vui, việc giết hại các sinh vật khác không nhằm mục đích nuôi sống bản thân mình mà chỉ nhằm cầu vui.
Mỗi con người, mỗi loài hữu tình đều có quyền sống, chúng ta không có quyền tước đoạt sinh mệnh của người khác, các loài vật khác. Phật giáo không cấm ăn thịt. Đức Phật sinh thời cũng
1 Tăng Chi Bộ Kinh tập 2: 754-755.
không cấm tăng chúng, Phật tử tại gia ăn thịt. Tuy các tăng sĩ Phật giáo Nam tông được phép ăn thịt, nhưng Phật giáo cũng quy định cụ thể những trường hợp được phép ăn và những trường hợp không được phép ăn, nếu không sẽ dẫn đến việc phá giới. Thịt được phép ăn đó gọi là thịt trong sạch, gồm: mắt không nhìn thấy người giết; tai không nghe người giết thịt; không phải để cho mình ăn mà
giết(1). Ngoài ra, khi đi đường, nếu thịt con vật bị con vật khác giết
hại, thì người xuất gia có thể ăn được. Vì vậy, ở các nước theo Phật giáo Nam tông, các nhà sư khất thực có thể ăn bất cứ loại thức ăn gì, kể cả thịt nếu đó là món thịt trong sạch.
Không những không sát sinh mà Phật giáo lại còn khuyên phóng sinh, tôn trọng sự sống của muôn loài, vì mọi chúng sinh có quyền bình đẳng và mạng sống của mỗi chúng sinh chỉ có một và rất quý mà bất kỳ ai cũng không có quyền tước đi. Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) có Phẩm Hình phạt (Dandavagga) cho thấy giá trị nhân bản của Phật giáo: “Mọi người sợ hình phạt, Mọi người sợ tử vong. Lấy mình làm ví dụ, Không giết, không bảo giết” [Kệ 129], hay: “Mọi người sợ hình phạt, Mọi người thương sống còn. Lấy mình làm ví dụ, Không giết, không bảo giết” [Kệ 130]. Hai bài kệ trên của Kinh Pháp Cú rất có ý nghĩa. Chúng ta hãy lấy bản thân mình làm gương, nếu sợ chết, sợ bị giết hại thì những người khác, những sinh vật khác cũng rất yêu quý mạng sống của mình, mọi sự sống đều thiêng liêng và bình đẳng. Phật tử thực hành giới không sát sinh mà ngược lại là phóng sinh đem lại lợi ích cho bản thân, xã hội và môi trường sống của chính mình. Vào những ngày lễ đặc biệt của Phật giáo, Phật tử đem cá, chim, các con vật đi phóng sinh tại những môi
1 Thích Minh Châu - Minh Chi 1991: 685.
trường thích hợp sẽ làm cho tâm hoan hỷ, mở rộng lòng từ đến mọi loài, tiêu trừ lòng sân hận, hiếu sát. Con cá, con chim được về với môi trường sinh sống sẽ sinh sôi, nảy nở làm cho môi trường sống được cải thiện tốt hơn.
- Giới không trộm cắp (lấy của không cho) mà lại còn bố thí
Ở các nước Phật giáo Nam tông, như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Sri Lanka,v.v… tăng sĩ sống bằng khất thực, chỉ nhận lãnh thức ăn và các vật dụng được Phật tử tại gia thành tâm cúng dường. Còn Phật tử tại gia thì được khuyến khích nuôi sống mình và gia đình mình bằng những nghề chính đáng. Chánh mạng, một trong Bát chánh đạo, là sống bằng nghề nghiệp chính đáng, lương thiện.
Về trộm cắp (lấy của không cho), có hai loại. Một loại là trộm cắp trực tiếp, nghĩa là chiếm đoạt một hay những cái gì thuộc quyền sở hữu của người khác. Loại trộm cắp thứ hai là gián tiếp bằng lừa đảo hay gian lận. Nói tóm lại, đạo đức Phật giáo lên án mọi hành vi thủ lợi, biển thủ, không trung thực, không lương thiện. Đối với Phật tử, cái gì đã không cho thì không lấy. Đó là phương châm bất di dịch, trong mọi giao dịch giữa Phật tử với nhau, cũng như giữa Phật tử với người ngoài. Theo phân tích của Minh Chi, một hành vi được xem là trộm cắp, là lấy của không cho khi có những điều kiện sau đây: của cải, đồ đạc, vật dụng của người khác; người lấy biết rõ, đó là của cải, đồ đạc, vật dụng của người khác; có ý chiếm đoạt; dùng thủ đoạn để chiếm đoạt; hành vi cụ thể chiếm đoạt; dùng phương tiện hay phương pháp chiếm đoạt là như thế nào, một khi đã có sự chiếm đoạt mà người đương sự, có của bị chiếm đoạt không
bằng lòng, thì đó là trộm cắp, là lấy của không cho, và người chiếm đoạt nhất định sẽ chịu quả báo tương ứng(1).
Phật giáo khuyến khích con người không được trộm cắp, mà ngược lại còn khuyến khích họ nên bố thí tùy theo hoàn cảnh và khả năng. Phật tử tại gia có của thì bố thí của (tài thí). Người xuất gia không có của cải vật chất nhưng cũng có cái để bố thí đó là bố thí pháp (pháp thí). Bố thí pháp là bố thí cho quần chúng những lời khuyên làm lành, lánh dữ, hướng quần chúng đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ bỏ những pháp bất thiện, thực hành những pháp thiện có ích lợi cho bản thân và xã hội, cộng đồng. Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật có thuyết về bố thí như sau: “Này các Tỷ-kheo, có hai loại bố thí này. Thế nào là hai? Bố thí tài vật và bố thí pháp. Những pháp này, này các Tỷ- kheo, là những loại bố thí. Tối thắng trong hai loại bố thí này,
này các Tỷ-kheo, tức là pháp thí”(2). Bố thí pháp được Đức Phật
đánh giá rất cao. Bố thí pháp chính là giáo hóa mà Đức Phật gọi là giáo hóa thần thông, tức những lời giáo hóa, bố thí pháp của chư tăng giúp cải biến một con người từ người xấu, trở thành một con người tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Biết thông cảm, chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, hy sinh bản thân vì người khác. Lại có những người không giàu có, cũng không có pháp để pháp thí nhưng họ có thế lực và sức mạnh, họ có thể thực hành cái mà trong kinh Phật gọi là vô úy thí, nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, bảo vệ cho chúng sanh, mọi người khỏi sợ hãi và lo âu. Ngoài ra còn có bố thí tùy hỷ (tùy hỷ thí), tức là chia sẻ niềm vui với mọi người, trong tâm hồn không mảy may có ý niệm ghen ghét đố kỵ.
- Xem bài Một số vấn đề của đạo Đức Phật giáo (bản thảo lưu tại gia đình).
- Kinh Bộ Tăng Chi 2005, tập 1: 168.
Hạnh bố thí đứng đầu 10 hạnh trong các hạnh Ba-la-mật của Phật giáo Nam tông(1), đứng đầu sáu hạnh Ba-la-mật của Phật giáo Bắc tông(2), đứng đầu bốn nhiếp hạnh, chung cho cả Nam tông và Bắc tông (bố thí, ái ngữ, lợi hạnh, đồng sự). Cho nên, chúng ta cần hiểu rõ nội dung của bố thí và những điều kiện để cho mỗi hành vi bố thí đạt được hiệu quả cao nhất, nhiều nhất. Trong Kinh tạng Pali, Đức Phật phân tích những tình huống bố thí không đem lại nhiều phước báo cho người bố thí:
“Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này. Thế nào là tám? Vì có người đến, nên bố thí; vì sợ hãi, nên bố thí; vì nghĩ rằng: ‘Người ấy đã cho ta’, nên bố thí; vì nghĩ rằng: ‘Người ấy sẽ cho ta’, nên bố thí; vì nghĩ rằng: ‘Bố thí là tốt’ nên bố thí; vì nghĩ rằng: ‘Ta nấu, những người này không nấu. Thật ta không xứng đáng là người nấu lại không cho người không nấu’; vì nghĩ rằng: ‘Do ta bố thí này, tiếng tốt sẽ được truyền đi’ nên bố thí; vì trang nghiêm tâm, trang bị tâm, nên bố thí. Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này”. Lại nữa, “Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản để bố thí. Thế nào là tám?Vì lòng dục nên bố thí; vì sân hận nên bố thí; vì ngu si nên bố thí; vì sợ hãi nên bố thí; vì nghĩ rằng: ‘Trước tổ tiên đã bố thí, trước đã làm. Ta không xứng đáng là người để truyền thống này bị bỏ phế’ nên bố thí. Vì nghĩ rằng: ‘Sau khi cho bố thí này, khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’ nên bố thí. Vì nghĩ rằng: ‘Khi ta bố thí này, tâm được tịnh tín, do tâm hân hoan, hỷ được sanh’ nên
-
-
Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Viễn ly Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Trung thực Ba-la-mật, Quyết tâm Ba-la-mật, Từ Ba-la-mật, Xả Ba-la-mật.
- Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật.
bố thí. Để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm nên bố thí. Này các Tỷ kheo, có tám căn bản để bố thí”(1).
Thực hành giới không trộm cắp (hay lấy của không cho) mà lại còn bố thí cho thấy tính nhân bản sâu sắc của Phật giáo. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu giới không trộm cắp (hay lấy của không cho) Phật giáo được phổ biến rộng, sẽ mang lại một tác dụng giáo dục rất lớn đối với xã hội hiện nay.
- Giới không tà dâm (từ bỏ phạm hạnh)
Theo Phật giáo, giới không tà dâm (từ bỏ phạm hạnh) có liên quan sâu rộng đến quần chúng. Phật giáo phân biệt chính dâm và tà dâm. Chính dâm là việc quan hệ tình dục chính đáng với các đối tượng là vợ/ chồng của đương sự. Còn lại đều là tà dâm. Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật có Phẩm sắc bàn về sự thu hút của những đối tượng khác giới tính mà nó xâm chiếm và ngự trị tâm đương sự: “Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông. Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông. Ta không thấy một hương… một vị… một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương… vị… xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
1 Kinh Tăng Chi Bộ tập 3: 607-608.
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như sắc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà.
Ta không thấy một tiếng… một hương… một vị… một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng… hương… vị… xúc người đàn ông. Này các Tỷ- kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà”(1). Như vậy, Đức Phật không tránh né với thị chúng về chuyện sắc giới dẫn đến việc quan hệ tình dục với người khác giới. Nhưng vấn đề là không phạm giới tà dâm đối với người Phật tử tại gia.
Đối với tăng sĩ, là sứ giả của Như Lai thì tuyệt đối không dâm dục. Trong Kinh Tăng Chi Bộ, phẩm Dâm dục, Đức Phật phân tích sâu về vấn đề này như sau: “Ở đây, này Bà-la-môn, có Sa-môn hay Bà-la-môn, tự xem mình sống phạm hạnh một cách chơn chánh, tuy không có hành dâm với nữ nhân, nhưng hưởng thụ được nữ nhân thoa, bóp, tắm, xức dầu. Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ nhân. Này Bà-la-môn, đây gọi là phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô, bị điểm chấm. Này Bà-la-môn, đây là hành phạm hạnh không thanh tịnh, bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục, không giải thóat khỏi sanh, già, chết,
sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không thóat khỏi khổ”(2). Nói
về giới không tà dâm, Kinh Pháp Cú có đoạn: “Không phóng dật, đường sống, Phóng dật là đường chết. Không phóng dật, không chết, Phóng dật, như chết rồi” [Kệ 21]. Làm thế nào để
-
Kinh Tăng Chi Bộ tập 1: 9-10.
- Kinh Tăng Chi Bộ tập 3: 350
không phạm giới tà dâm? Chỉ có một cách đó là tu tập tâm. Khi nhiếp phục được tâm rồi thì có thể chế phục được khẩu và hành là chuyện dễ dàng. Kinh Pháp Cú cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc tu tập tâm, kiểm soát tâm đừng nghĩ tà quấy, nghĩ đến chuyện dâm dục là quan trọng và có ý nghĩa như thế nào: “Khó nắm giữ, khinh động. Theo các dục quay cuồng. Lành
thay, điều phục tâm. Tâm điều, an lạc đến”(1).
Tóm lại, việc giữ giới không tà dâm có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của từng cá nhân, dù là tăng sĩ hay Phật tử tại gia. Việc giữ giới không dâm dục có thể bắt đầu từ việc tu tập tâm. Khi tâm được nhiếp phục, điều phục thì chuyện giữ giới không tà dâm không khó.
- Giới không nói dối, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời đoàn kết
Phật giáo khuyên tất cả mọi người không nên nói dối, vì nói dối là căn nguyên của mọi chuyện xấu xa, độc ác, làm phá vỡ hòa hợp gia đình, Tăng chúng, cộng đồng, đánh mất niềm tin của người khác đối với bản thân. Đối với Phật giáo, nói dối tai hại trên nhiều mặt. Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định xã hội. Con người chỉ có thể sống chung với nhau trong một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin rằng, trong giao tiếp, mọi người đều nói lời chân thật. Thứ hai, trên bình diện cá nhân, nói dối có tác dụng phản ứng dây chuyền. Tức là, lời nói dối này kéo theo lời nói dối khác, rồi một lời nói dối khác nữa, cho tới khi bản thân bị bao bọc bởi tấm màn dối trá do chính mình tạo ra. Một con người như thế ngày càng tách rời xa đích giải thóat và giác ngộ, ngày càng sa vào vòng tội lỗi khó gỡ ra được. Một
1 Kệ 36, Kinh Pháp Cú 2000: 15
người đã sống không thật với người khác, và với bản thân mình, thì sẽ không bao giờ tìm tới sự thật, chứ đừng nói việc giác ngộ sự thật. Trong Kinh Trung Bộ, Kinh giáo giới La-Hầu-La, Đức Phật lấy hình ảnh ẩn dụ là chậu nước rất có ý nghĩa để giảng về nói dối với Rahula: “Rồi Thế Tôn, sau khi để một ít nước còn lại trong chậu nước, bảo Tôn giả Rahula: - Này La Hầu La, ông có thấy một ít nước còn lại trong chậu nước không? - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Cũng ít vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý (không biết xấu hổ-người viết)... Rồi Thế Tôn lật úp chậu nước ấy và bảo Tôn giả Rahula: - Này Rahula, ông có thấy chậu nước bị lật úp không? - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Cũng lật úp vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo,
không có tàm quý…”(1). Ở một đoạn kinh sau, Đức Phật nói:
“Cũng vậy, này Rahula, đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm. Do vậy, này Rahula, ‘Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi’, này Rahula, ông phải học tập như vậy”(2).
Khi một người làm việc sai trái, dối trá mặc dù cộng đồng không biết dẫn đến việc anh ta không cảm thấy xấu hổ với cộng đồng, nhưng lương tâm anh ta cũng phán xét và biết tự xấu hổ với bản thân. Nếu một con người vô tàm, vô quý tức là không biết tự xấu hổ với chính bản thân mình và xấu hổ với người khác, thì con người đó không có chuyện gì ác mà không dám làm như Đức Phật nói. Thực vậy, những lời nói dối khi chúng ta nghĩ là bình thường, đôi khi nói dối là nói để mà chơi nhưng thật ra nó có tác dụng rất tai hại cho bản thân người nói dối và cho
- Kinh Trung Bộ 2005, tập 2: 172-173.
- Kinh Trung Bộ 2005, tập 2: 174.
cộng đồng. Chúng ta thử nghĩ, một cá nhân có tính thích nói dối để mà chơi, mua vui hết lần này tới lần khác, rồi đến khi anh ta nói thật trong lúc gặp nguy hiểm, hay cần giúp đỡ thì ai mà tin được. Khi không nói dối, thì chúng ta tự động nói lời chân thật, lời đoàn kết đúng lúc, đúng nơi sẽ dẫn đến những lợi ích vô cùng lớn lao cho cá nhân và cộng đồng.
- Giới không dùng các chất say, mà ngược lại ăn uống điều độ để có được thân khỏe mạnh, trí óc minh mẫn
Từ hơn 2.500 năm trước, Đức Phật đã nhận ra sự nguy hại của các chất say đối với cá nhân và cộng đồng. Một cá nhân khi đã dùng các chất say, thì anh ta không còn kiểm soát được hành vi của mình. Anh ta như con voi điên loạn, phá phách lung tung. Đến khi anh ta tỉnh ra thì đã muộn, hối hận cũng không kịp nữa, bị mất uy tín, bị tù tội, bị loại ra khỏi cộng đồng trong những trường hợp gây hại nghiêm trọng. Trong một xã hội, nếu có nhiều người dùng các chất say, rượu bia, chất ma túy hay những hình thức đầu độc tâm thần khác thì hậu quả khôn lường. Trong Kinh Trường Bộ, Đức Phật thuyết Kinh giáo thọ Thi-ca-la-việt (Kinh Singàlovàda) về tác hại của rượu: “Này gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm: Tài sản hiện tại bị tổn thất, đấu tranh tăng trưởng, bệnh tật dễ xâm nhập, thương tổn danh dự để lộ âm tàng, và thứ sáu là trí lực tổn hại. Này gia chủ tử, đam
mê các loại rượu có sáu nguy hiểm như vậy”(1). Ngày nay, những
hình thức của chất say còn phát triển mạnh lên gấp bội lần như ma túy, cần sa, ma túy tổng hợp,... thì giới không dùng các chất say cần phải được tuyên truyền và giáo dục và giải thích mạnh hơn nữa để cá nhân và cộng đồng nhận thấy sự xấu hại của
1 Kinh Trường Bộ 2001: 533.
chúng. Nếu việc tuyên truyền, giáo dục giới không dùng các chất say có tác dụng rộng rãi thì cá nhân và xã hội tiết kiệm được một số lượng lớn tiền bạc, đạo đức cá nhân và xã hội được nâng cao, cuộc sống của mọi người trở nên tốt đẹp hơn. Giữ cho đầu óc tỉnh táo, rèn luyện thân thể khỏe mạnh, đầu óc minh mẫn có ý nghĩa rất lớn đối với hạnh phúc của từng cá nhân và cộng đồng.
Khi một Phật tử giữ được năm giới trên thì anh ta sẽ thực hành được 10 điều thiện một cách tự nguyện, đem lại nhiều lợi ích cho bản thân và cộng đồng. Mười điều thiện là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói lời thô ác, không tham lam, không sân hận, không si mê. Trong đó, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm thuộc về thân nghiệp; không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói lời thô ác thuộc về khẩu nghiệp; không tham lam, không sân hận, không si mê thuộc về ý nghiệp.
- Vài nhận xét về tính nhân bản của đạo đức Phật giáo Nam tông qua một số kinh tạng Pali
Theo Minh Chi, đạo đức Phật giáo phân biệt rõ ràng thiện và ác. Ông cho rằng: “Gần đây, có một số ít người, chịu ảnh hưởng của thuyết hoài nghi Phương Tây, cho rằng thiện và ác rất khó phân biệt, thậm chí họ còn nói: Cực ác là thiện, cực thiện là ác”(1). Đối với Phật tử, hành vi thiện hay ác là rõ ràng minh bạch: Sát sanh là ác, phóng sanh là thiện, hiếu sanh là thiện. Lấy của không cho là ác, bố thí là thiện. Tà dâm, sống tà hạnh là ác, sống chánh hạnh là thiện. Nói láo là ác, nói chân thật là thiện. Nói
1 Xem: Ý nghĩa ngày lễ Phật đản năm nay: Sống theo nếp sống đạo đức Phật giáo
(Tài liệu lưu ở gia đình).
chia rẽ là ác, nói đoàn kết là thiện. Nói lời ác là ác, nói lời dịu hiền dễ nghe là thiện. Nói lời vô nghĩa, không đúng thời là ác, nói lời có ích, nói đúng thời là thiện. Tham là ác, không tham là thiện. Sân là ác, không sân là thiện. Tà kiến là ác, không tà kiến là thiện.
Phật giáo Nam tông hay Phật giáo Bắc tông đều xem trọng việc giữ giới của Tăng ni, Phật tử. Ảnh hưởng tích cực của việc thực hành năm giới trong xã hội ngày nay cho thấy bằng chứng hùng hồn về tính nhân bản của những lời Đức Phật đã dạy cách đây hơn 2.500 năm. Chúng tôi nghĩ rằng, những giới (pháp) này nên được phổ biến rộng rãi hơn nữa đối với xã hội. Khi được phổ biến rộng rãi, chúng sẽ có tác dụng ngăn chặn những hành động bạo lực, giết chóc, những hành vi trộm cắp, những thói hư tật xấu trong quan hệ tình dục bừa bãi đã và đang làm tan nát nhiều gia đình. Được như vậy, xã hội sẽ trở nên tiến bộ hơn, lành mạnh hơn, cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Kinh Bộ Tăng Chi, tập 2, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2003.
- Kinh Bộ Tăng Chi, tập 1, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2005.
- Kinh Bộ Tăng Chi, tập 3, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2005.
- Kinh Mi Tiên vấn đáp, HT. Giới Nghiêm dịch, Nxb. Tôn giáo, 2005.
- Kinh Pháp Cú, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2000.
- Kinh Trung Bộ, tập 2, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2005.
- Kinh Trường Bộ, tập 2, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2001.
- Thích Minh Châu-Minh Chi, Từ điển Phật học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, 1991.