NÂNG CAO GIÁO DỤC VÀĐÀO TẠO PHẬT PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
ĐĐ. Thích Minh Tấn
- TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HIỆN TẠI CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Nghiên cứu này tập trung vào tình hình hiện tại của Hệ thống Giáo dục và Đào tạo Phật giáo Việt Nam có thể dẫn đến hiệu quả trong hội nhập và phát triển toàn cầu và Phật giáo Việt Nam.
Mục tiêu của nghiên cứu này là Hệ thống Giáo dục và Đào tạo Phật giáo Việt Nam và cơ sở được chọn là Học viện Phật giáo Việt Nam (sau đây gọi là VBU) tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay, Học viện Phật giáo Việt Nam (VBU) tại Thành phố Hồ Chí Minh là một trường đại học chuyên về Cử nhân Phật giáo cho các thành viên Tăng đoàn và sinh viên. Đã có một số khóa học

![]()
*. Nghiên cứu sinh Đại học European International University (Pháp), Uỷ Viên Phân ban hướng dẫn Phật tử Trung ương, Trưởng ban quản chúng Tổ đình Chùa Bửu Quang, Trụ trì chùa Đại Thọ Phần Lan.
**. Phó viện trưởng – Viện Đào tạo Phát triển Doanh nhân Việt Nam (VIETD), Giáo sư tại Apollos University (USA), Giáo sư tại Đại học Khoa học và Công nghệ Malaysia (MUST), Giảng viên tại một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh, Nghiên cứu viên tự do.
thạc sĩ về Phật giáo cho các sinh viên và sinh viên Tăng đoàn, và đã có các khoá học thạc sĩ và bằng tiến sĩ về Phật giáo (giảng dạy bằng tiếng Anh) cho các thành viên Tăng đoàn và sinh viên quốc tế.
Quá trình phát triển của trường đại học là liên tục chuyển đổi và sửa đổi để áp dụng các phương pháp tiếp cận mới nhất cho các chiến lược giáo dục nhằm tăng cường chất lượng giảng dạy và học tập tại VBU. Do đó, nghiên cứu này là kịp thời vì nó cung cấp động lực để xem xét sự liên quan và sự phù hợp của thực tiễn giảng dạy, học tập hiện tại với mối quan hệ gắn với sự hài lòng của sinh viên.
Chính sách hiện tại của VBU nếu không phù hợp, cản trở hoặc họ không thích, không đi đúng vào hệ thống đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam hoặc hệ thống giáo dục thế giới sẽ dần dần bị loại bỏ. Thực tiễn và chiến lược cho việc dạy và học, thực hành và chiến lược sẽ thay thế phương pháp truyền thống đã được sử dụng trước đây.
Nghiên cứu này rất quan trọng để tìm ra các giải pháp và biện pháp phù hợp để có được nguồn nhân lực tốt nhất để họ có thể đóng góp phần của mình nhằm tăng cường các nhiệm vụ hội nhập và phát triển toàn cầu của Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu chính như sau:
-
- Xác định các yếu tố dạy và học chính sẽ dẫn đến kết quả học tập cao hơn của sinh viên tại VBU.
- Xác định dịch vụ hỗ trợ là gì sẽ dẫn đến thành tích học tập cao hơn cho sinh viên tại VBU.
- Xác định những đóng góp của sinh viên tốt nghiệp từ VBU cho các nhiệm vụ hội nhập và phát triển toàn cầu của Phật giáo Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu khoa học này là thực hiện các cuộc phỏng vấn với các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo để lấy ý kiến phân tích.
Giáo dục đại học tại Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển quan
trọng. Các cải cách mới về quản lý chính sách, giáo dục và đầu tư mới để cải thiện chất lượng vẫn là vấn đề chính cần được giải quyết.
Tiếp tục có những điểm yếu nghiêm trọng về chất lượng cơ sở hạ tầng và các tổ chức, bao gồm giáo dục và đào tạo đại học. Hệ thống giáo dục đại học chịu chất lượng dưới tiêu chuẩn trong giảng dạy và nghiên cứu, trình độ của nhân viên đại học thấp, năng lực R & D và đầu tư nghiên cứu thấp, tăng bằng chứng về tắc nghẽn kỹ năng và phân phối cơ hội không công bằng. Nói cách khác, hệ thống giáo dục đại học chưa có các công cụ cần thiết để thích ứng với nhu cầu ngày càng tăng và thay đổi của một nền kinh tế ngày càng năng động.
Hướng tới một hệ thống giáo dục đại học hiệu suất cao hạng nhất sẽ đòi hỏi một loạt các cải cách tạo ra một hệ thống linh hoạt và đa dạng hơn, trong số các đặc điểm khác, khung quản trị và quy định mới, tăng đáng kể tài trợ với sự tham gia của khu vực tư nhân nhiều hơn và lớn hơn nhấn mạnh vào nghiên cứu với sự phát triển tiềm năng của các trung tâm xuất sắc. Phát triển môi trường chính sách cung cấp cho các trường đại học và cao đẳng nguồn lực đầy đủ, tự chủ đầy đủ và khuyến khích phù hợp là điều cần thiết để cung cấp các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Điều này đòi hỏi những cải cách cơ bản, đặc biệt là trong lĩnh vực quản trị, tài chính và đảm bảo chất lượng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, nơi quản lý và điều chỉnh hệ thống giáo dục đại học trong nước, đã xây dựng các mục tiêu này trong Chương trình nghị sự cải cách giáo dục đại học, 2006-2020. Chương trình cải cách thúc đẩy một chương trình nghị sự hướng tới chiến lược phát triển một hệ thống giáo dục đại học có tính cạnh tranh cao với năng lực nghiên cứu và giảng dạy tiên tiến như là động lực cho nền kinh tế dựa trên tri thức. Mục tiêu chính của chiến lược là (i) tăng đáng kể tỷ lệ tham gia vào các trường đại học, (ii) đồng thời tăng cường chất lượng và hiệu quả của hệ thống giáo dục đại học, (iii) tăng cường năng lực nghiên cứu trong các trường đại học để nâng cao chất lượng giảng dạy và để cung cấp một cơ sở nghiên cứu cho sự phát triển của ngành công nghiệp và doanh nghiệp, và (iv) cải
thiện quản trị của hệ thống giáo dục đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đối mặt với những thách thức to lớn, tuy nhiên, trong việc đáp ứng các mục tiêu cụ thể trong chương trình cải cách giáo dục đại học, bao gồm (i) phát triển các trường đại học trọng điểm thành trung tâm khoa học lớn cho cả nước bằng cách tăng thu nhập từ các hoạt động khoa học và công nghệ (dịch vụ và sản phẩm) lên 15% trong tổng doanh thu của các tổ chức vào năm 2010 và đến 25% vào năm 2020; (ii) tăng tuyển sinh lên 200 sinh viên trên 10.000 dân vào năm 2010 và lên 450 sinh viên trên 10.000 dân vào năm 2020;
(iii) nâng tỷ lệ nhân viên giảng dạy đại học với trình độ thạc sĩ lên 40% vào năm 2010 và lên 60% vào năm 2020; (iv) nâng tỷ lệ nhân viên giảng dạy đại học có trình độ tiến sĩ lên 25% vào năm 2010 và lên 35% vào năm 2020; và (v) giảm tỷ lệ sinh viên đại học trong đội ngũ giảng viên xuống 20:1 vào năm 2020.
Thách thức chính của Chính phủ là vận hành các mục tiêu chiến lược này bằng cách thay đổi quản trị và tài chính cấp hệ thống trong khi thúc đẩy hiện đại hóa cấp độ tổ chức. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi mô hình trong quản lý ngành, thay đổi từ mức độ kiểm soát trung tâm cao hiện nay đối với các vấn đề vận hành và chuyển sang mô hình management quản lý bị phá hủy. Quản lý chuyên nghiệp sẽ thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn hệ thống bằng cách thiết lập khung chính sách và quản lý tài chính để tạo thuận lợi cho kết quả giáo dục và kết quả giám sát đối với trách nhiệm công cộng trong khi các trường đại học tự trị chịu trách nhiệm về chất lượng và kết quả học tập, và báo cáo cho Chính phủ về kết quả.
Chính phủ đang nhận được khoản vay đáng kể từ Ngân hàng Thế giới để hỗ trợ sự phát triển của ngành, thông qua hai chương trình cho vay hiện tại: Dự án Giáo dục Đại học thứ hai và Hoạt động Chính sách Phát triển Giáo dục Đại học số 1 (Công cụ cho vay Chính sách Phát triển). Những cải cách này nhằm đưa ra các quy định hiện đại về quản trị hệ thống, tài chính và đảm bảo chất lượng. Mô hình mới NMU (Trường đại học kiểu mới) sẽ là nơi để thiết lập và thử nghiệm tính chất, phạm vi và mức độ của các cải
cách đó để phục vụ như các trường đại học trình diễn và hỗ trợ Chính phủ xác định cách mở rộng tốt nhất các cải cách cho toàn hệ thống. Để có hiệu quả như các trường đại học mô hình mới, NMU sẽ cần được cung cấp các cơ chế quản lý mới về quản trị, tài chính và đảm bảo chất lượng để làm cho chúng hoàn toàn hiệu quả, tự chủ và cạnh tranh.
Những thay đổi về quy định được lên kế hoạch để thực hiện HERA (Chương trình cải cách giáo dục đại học) trong những năm tới đến năm 2020 sẽ đòi hỏi những cách tiếp cận mới trong lĩnh vực quản trị, (i) về mặt lựa chọn lãnh đạo trường đại học, tuyển dụng, bồi thường và quản lý học thuật và nhân viên hành chính, tuyển sinh, lựa chọn chương trình học và bằng cấp, lựa chọn các chủ đề nghiên cứu; (ii) tài chính, bao gồm học phí và chương trình cho vay sinh viên, chương trình tài trợ nghiên cứu cạnh tranh và khuyến khích tài trợ ngoài công lập lớn hơn; và (iii) phát triển đảm bảo chất lượng nội bộ, bao gồm các nguồn lực bổ sung liên quan đến tiêu chuẩn hiệu suất cao hơn, trách nhiệm giải trình thông qua kiểm toán tài chính, học thuật và các nguồn lực để đáp ứng một cách thích hợp với hệ thống đảm bảo chất lượng bên ngoài của Chính phủ và các cơ quan kiểm định độc lập. Đầu tư lớn vào các cơ sở hiện đại, phòng thí nghiệm nghiên cứu tiên tiến và nắm giữ thư viện mạnh mẽ cũng được yêu cầu để mang lại sự cải thiện cần thiết về chất lượng, tính phù hợp và khả năng cạnh tranh.
- BÀI HỌC KINH NGHIỆM - TRIỂN VỌNG CHO GIÁO DỤC VIỆT NAM (BÁO CÁO VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 5 NĂM GIAI ĐOẠN 2016-2020, (2015))
Bài học đầu tiên rút ra từ sự phát triển thực tế của giáo dục Việt Nam, đặc biệt là hơn 20 năm cải cách, là: Chính phủ phải luôn quyết tâm và nhất quán trong các hành động và nhận thức của mình, và phải liên tục coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ, như chính sách quốc gia hàng đầu. Quan điểm này cần được thể hiện thông qua một loạt các quyết định quan trọng, từ việc thiết lập môi trường pháp lý (ban hành luật, nghị định và quy định), để
tăng cường các điều kiện hoạt động cho hệ thống giáo dục (chính sách liên quan đến tài chính, nhân viên giảng dạy, thể chất trường học các cơ sở, v.v…), cũng như việc đánh giá các hoạt động giáo dục, làm cho khả năng đáp ứng của hệ thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội là một yêu cầu cơ bản. Xuất phát từ quan điểm này, nhận thức về giáo dục ngày càng tăng, và giáo dục đã thực sự trở thành nguyên nhân của cả nhà nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam.
Bài học thứ hai là để phát triển, hệ thống giáo dục Việt Nam phải được đổi mới căn bản và toàn diện để đi theo các hướng dân chủ hóa, xã hội hóa, đa dạng hóa, tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa.
a) Liên quan đến dân chủ hóa, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực xây dựng một hệ thống giáo dục là của mọi người, của mọi người và của mọi người; chuyển đổi từ mệnh lệnh sang phong cách dân chủ với phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, thiết lập và liên tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người học, giáo viên và phụ huynh; tăng dần quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của tổ chức; và để thực hiện phân cấp thích hợp trong quản lý giáo dục. b) Về xã hội hóa (hỗ trợ trực tiếp từ người học và gia đình họ), hệ thống giáo dục Việt Nam đã trải qua những thay đổi cơ bản: tất cả các nguồn lực xã hội đã được huy động; giáo dục phi chính quy đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ với nhiều tổ chức ngoài công lập được thành lập và các chế độ giáo dục khác nhau được áp dụng để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của mọi người. Hiện nay, nhu cầu nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức đòi hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam phải tăng cường hơn nữa quá trình xã hội hóa, phát huy thế mạnh thông qua sự hợp tác của nhà nước và nhân dân, và tạo điều kiện cho việc học tập suốt đời để xây dựng một xã hội học tập. c) Liên quan đến đa dạng hóa, giáo dục Việt Nam đã được chuyển đổi từ hệ thống ‘đơn điệu’, thiếu sự khác biệt giữa tính đồng nhất và tính độc đáo sang phong cách tổ chức và hoạt động đa dạng, dẫn đến mở rộng cơ hội học tập và tăng khả năng đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người. d) Về tiêu chuẩn hóa, hệ thống giáo dục Việt Nam đang cố gắng chuyển từ các quy định chung sang các quy định cụ thể và chi
tiết để trong bối cảnh tiếp tục mở rộng định lượng, việc đo lường hiệu suất chất lượng có thể diễn ra và củng cố đảm bảo chất lượng. Điều này bắt đầu với sự phát triển của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực giáo dục, đồng thời việc thiết lập chương trình / chứng nhận chương trình cũng như các điều kiện để đảm bảo chất lượng giáo dục. Các nhà hoạch định chính sách giáo dục Việt Nam hy vọng rằng hệ thống giáo dục Việt Nam sẽ có thể, về tiêu chuẩn hóa, đạt được sự nhất quán trong đa dạng hóa và đẩy nhanh quá trình hội nhập, hợp tác và cạnh tranh với các hệ thống giáo dục tiên tiến khác trong khu vực và quốc tế. e) Liên quan đến hiện đại hóa, các nhà hoạch định chính sách giáo dục Việt Nam kỳ vọng sẽ đưa hệ thống giáo dục của chúng ta đến cấp độ khu vực và quốc tế. Điều này đòi hỏi các tiêu chuẩn cao trong hệ thống tiêu chuẩn giáo dục quốc gia. Trong bối cảnh của một quốc gia nghèo như Việt Nam, đây là một thách thức lớn và đòi hỏi các nhà giáo dục phải tích cực tìm cách thu hẹp nhanh chóng các lỗ hổng với các hệ thống giáo dục tiên tiến khác nhau trên thế giới.
Bài học thứ ba là, để mang lại những thay đổi cơ bản và toàn diện cho hệ thống giáo dục Việt Nam phản ánh các mục tiêu tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và dân chủ hóa, các nhà hoạch định và quản lý chính sách giáo dục Việt Nam tin rằng cần phải đổi mới cách suy nghĩ, để thoát khỏi cái gọi là cách suy nghĩ và làm việc truyền thống, và đặc biệt là để tránh một phong cách quản lý từng phần. Nhiệm vụ khó khăn nhất trong khi đổi mới cách suy nghĩ hiện tại trong giáo dục là thiết lập một tầm nhìn tổng thể về giáo dục phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Đồng thời, một phong cách làm việc mới cần được thiết lập cho tất cả các cán bộ giảng dạy và quản lý giáo dục, tập trung vào chất lượng và hiệu quả làm cơ sở để đánh giá. Hơn nữa, vì giáo dục là một lĩnh vực rất nhạy cảm, đổi mới cách suy nghĩ của các nhà hoạch định và quản lý chính sách giáo dục phải được chuyển thành đổi mới cách suy nghĩ của toàn xã hội. Để đạt được điều này, tất cả các thay đổi phải xuất phát từ nhu
cầu thực tế và phục vụ lợi ích và lợi ích lâu dài của mọi người; do đó, công khai và minh bạch phải được coi là yếu tố quan trọng nhất trong phong cách quản lý và hoạch định chính sách giáo dục. Ở đây, một thách thức lớn cần được giải quyết, đó là mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định. Nhằm duy trì sự ổn định cần thiết trong giáo dục, mọi thay đổi phải tuân theo một lộ trình phù hợp, được tất cả các cán bộ giảng dạy và quản lý giáo dục hiểu và được phụ huynh và xã hội đồng ý, và một trong những điều đó dẫn đến việc giữ gìn trật tự trong quá trình cải cách giáo dục.
Mục tiêu quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong những năm tới là: Từ đó đặt nền móng cho việc thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế tri thức. Đó là, liên tục tăng nội dung tri thức trong tất cả các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, và mang lại những thay đổi cơ bản trong giáo dục và đào tạo. Từ quốc gia thực tế và những bài học kinh ng- hiệm ở các nước khác, nhiều nhà hoạch định và quản lý chính sách giáo dục Việt Nam tin rằng hệ thống giáo dục mà Việt Nam mong đợi phải là một hệ thống giáo dục mở mà mọi người đều có thể tiếp cận dễ dàng; một hệ thống giáo dục nuôi dưỡng và thúc đẩy sự sáng tạo của những người trẻ tuổi, với các tổ chức giáo dục - nhất là các trường đại học - như những cái nôi của đổi mới khoa học và công nghệ; một hệ thống giáo dục gắn liền với tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông, để liên tục đổi mới nhưng giữ gìn sự ổn định; và một hệ thống giáo dục thúc đẩy cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục khác nhau để nâng cao chất lượng, và dần dần nâng cao, thông qua hợp tác và cạnh tranh với các tổ chức giáo dục nước ngoài, tình trạng khu vực và quốc tế của Việt Nam. Hướng tới một hệ thống giáo dục như vậy không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội cho Việt Nam; và thành công trong tương lai sẽ phụ thuộc vào sự nhạy cảm của nhà hoạch định chính sách đối với các yếu tố mới và khả năng thực hiện đổi mới trong bối cảnh hiện tại, cũng như những nỗ lực của đội ngũ giảng viên, quản lý giáo dục, phụ huynh, người học và toàn xã hội.
- Những vấn đề và cơ hội chính đối với Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo dục đại học và sự kiểm soát của Chính phủ
Thứ nhất, Giáo dục Đại học Phật giáo là một phần của Giáo dục Đại học Việt Nam. Hệ thống đại học Việt Nam cho đến nay đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi hệ thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học chủ yếu là các tổ chức giảng dạy, trong khi nghiên cứu được thực hiện bởi các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đang cố gắng thúc đẩy các nhiệm vụ nghiên cứu đại học. Thật không may, những nỗ lực này đã gặp rất ít thành công.
Những vấn đề Việt Nam phải đối mặt trong giáo dục đại học ngày nay một phần là hậu quả của chiến tranh kéo dài. Chính phủ Pháp cai trị Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1945 đầu tư rất ít vào giáo dục đại học. Do đó, chúng ta đã bỏ lỡ làn sóng đổi mới trong giáo dục đại học đi qua phần lớn châu Á trong đầu thế kỷ XX (Valley &Wikinson, 2008).
Chất lượng giáo dục đại học kém có một hàm ý khác: trái ngược với các đồng nghiệp Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam thường không thể cạnh tranh cho các vị trí trong các chương trình sau đại học ưu tú ở Mỹ và châu Âu (Valley &Wikinson, 2008).
Hiện nay, có bốn Học viện Phật giáo: tại Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Phật giáo Nguyên thủy ở Cần Thơ dành cho các nhà sư Phật giáo Nguyên thủy. Viện nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thành lập năm 1984 là một đơn vị riêng biệt với hệ thống đại học và thuộc Hội đồng Tăng đoàn Phật giáo.
Trình độ đào tạo của các Học viện Phật giáo Việt Nam bị giới hạn ở các trường đại học, cao đẳng và chuyên ngành. Các chương trình giáo dục được pha trộn giữa các văn bản kinh điển cũng như các môn khoa học xã hội (Thích Thanh Từ, 2001). Mục đích là để cải thiện kiến thức thế tục cho các thành viên Tăng đoàn, để họ dễ dàng đóng góp thiết thực cho xã hội.
- Phật giáo được dạy như thế nào?
Trong giáo dục, những điểm chính là phương pháp đào tạo của các giảng viên và thái độ học tập của sinh viên cả trong và ngoài lớp. Hiện nay trên thế giới, ba hình thức giáo dục hiện đại được áp dụng
- Giảng viên làm trung tâm; Phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm và Phương pháp tương tác.
Phương pháp truyền thống đã được sử dụng rộng rãi trong đó đặt học sinh vào thế bị động chứ không phải là vai trò tích cực và khuyến khích giao tiếp một chiều. Do đó, các giảng viên cố gắng nỗ lực để nhận thức được sự hiểu biết của sinh viên mà không có bất kỳ phản hồi nào. Giải thích chung cho sự thụ động là những nét văn hóa của văn hóa di sản Nho giáo được khẳng định là định hình phong cách học tập của học sinh ở Việt Nam.
- Cơ sở vật chất và kinh phí
Các Học viện Phật giáo tại Việt Nam đang phải đối mặt với một số vấn đề với các cơ sở. Lớp học, thư viện không được trang bị tốt. Máy vi tính, ký túc xá, đa phương tiện và nghiên cứu không có sẵn cho sinh viên.
Việc xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam hiện đại mới trên khu đất rộng 23,8 ha tại Thành phố Hồ Chí Minh đang trong giai đoạn hoàn thành đầu tiên và thật khó để dự đoán hoàn thành do vấn đề kinh phí. Chỉ 83 tỷ đồng (khoảng 3,8 triệu đô la) trong số
2.000 tỷ đồng (khoảng 93 triệu đô la) - cho đến nay chỉ cần 4% yêu cầu về vốn (Tin tức của Học viện Phật giáo Việt Nam).
Học phí có vai trò quan trọng. Nó sẽ được sử dụng để tái đầu tư vào các trường đại học để liên tục cải thiện cơ sở vật chất. Phí liên quan đến chất lượng giảng dạy và học tập. Dưới đây là bảng so sánh học phí của bậc cử nhân. Bảng dưới đây cho thấy sự bất hợp lý về học phí của các Học viện Phật giáo tại Việt Nam:
Đơn vị: USD
|
Đại học Công |
Đại học Tư |
Đại học Quốc tế |
Học viện Phật giáo |
Học phí Trung bình 1 năm cho 1 năm học, năm 2014 |
>$400 |
>$1,000 |
>$4,000 |
>$145 |
Nguồn: Nguyễn Quý Hoàng (2015).
Đơn vị: USD
|
Đại học Công |
Đại học Tư |
Đại học Quốc tế |
Học viện Phật giáo |
Học phí trung bình cho 1 năm học, năm 2016 |
>$400 |
>$1,000 |
>$4,000 |
>$145 |
Nguồn: Các tác giả thu lượm (2016).
Về lâu dài, Hội đồng Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam cần có những chính sách phù hợp để VBU có thể có thu nhập ổn định bằng cách tự kinh doanh. Có nhiều tranh luận về chủ đề này của các học giả Phật giáo bởi vì lối sống tu sĩ được lý tưởng hóa bởi Phật giáo là rất tối giản về kinh tế (Thích Tâm Đức, 2016).
- Những vấn đề và cơ hội then chốt đối với Phật giáo Việt Nam
Trong lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo, Phật giáo Việt Nam đã nhận được sự quan tâm không đầy đủ từ các học giả trong môi trường Euro-American. Một phần của điều này xuất phát từ những thành kiến học thuật ủng hộ Phật giáo tập trung vào văn bản hơn là những biểu hiện đạo đức của thực tiễn Phật giáo. Sự thiên vị như vậy có cơ sở trong các cách tiếp cận cũ hơn đối với học bổng đặc quyền các văn bản nhất định và, từ quan điểm đó, xây dựng một bức tranh về tôn giáo trong khi chủ yếu bỏ qua các đại diện và miêu tả
của các cá nhân và nền văn hóa tương ứng của họ. Văn hóa văn học Phật giáo Việt Nam đã không phát triển đến mức tương tự như ở các địa phương Phật giáo khác và sau đó đã được chú ý ít học thuật hơn. Ngoài ra, những trở ngại vẫn còn đối với những người hoàn thành nghiên cứu về tôn giáo ở Việt Nam, dưới chế độ cầm quyền, vẫn là một chủ đề nhạy cảm. Ví dụ, việc định vị và truy cập các đối tượng để phỏng vấn và xử lý các tài liệu lưu trữ quan liêu nặng nề có thể là một thách thức hơn so với khi được thực hiện ở các quốc gia đa số Phật giáo khác. Mặc dù còn nhiều hạn chế, công việc xuất sắc đã được thực hiện ở Việt Nam, chiếu sáng một số lĩnh vực nhất định của lịch sử Phật giáo và thực tiễn đương đại, nhưng vẫn còn những khoảng trống đáng kể trong một số lĩnh vực quan trọng trong nghiên cứu Phật giáo Việt Nam.
Các ấn phẩm hấp dẫn, như McDaniel (2011), Kitiarsa (2012) và Soucy (2012) đã giúp đẩy Phật giáo ra khỏi một phiên bản Phật giáo cũ, lý tưởng hóa, tập trung vào giáo luật, vào các hình thức biểu hiện tôn giáo phổ biến.
Liên quan đến một chủ đề đặc biệt trong Phật giáo và vai trò của nó trong lịch sử Việt Nam, McHale (2004) và DeVido (2007) đã làm sáng tỏ cuộc phục hưng Phật giáo thế kỷ XX tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều công việc vẫn còn trên di sản của phong trào này. Tóm lại, Phục hưng đã tìm cách củng cố và biến đổi Phật giáo tại Việt Nam và đưa nó trở lại thời kỳ hoàng kim của Phật giáo.
Hơn nữa, các văn bản Phật giáo mới và cũ đã được dịch và đưa ra tình trạng quan trọng về thần học trong khi các học viên được khuyên nên đọc, nghiên cứu và hiểu chúng hơn là dựa vào việc đọc thuộc lòng mà không có kiến thức về nội dung. Những người phục hưng Việt Nam tập trung vào sự tham gia với xã hội, thiết lập trường học, phòng khám, tổ chức và các phương tiện tiếp cận xã hội khác - nhiều trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Phong trào Phật giáo hòa bình ở miền Nam Việt Nam là một phần quan trọng của lịch sử gắn liền với cuộc Phục hưng vốn là tâm điểm chú ý của các học giả trong những năm gần đây. Taylor
(2013) và Miller (2013, 2015), đều có những diễn giải bằng văn bản (thường khác biệt nhau) về phong trào này và các nhân vật chủ chốt của nó.
Kể về niềm đam mê học tiếng Anh của sinh viên tại VBU, Thích Tâm Đức (2016) cũng trích dẫn rằng các sinh viên đăng ký các khóa học tiếng Anh cho Phật giáo là: (1) 40 sinh viên năm 2009; (2) 33
sinh viên 2011; (3) 30 sinh viên năm 2013; và (4) 28 sinh viên năm 2015. Điều này nói lên rằng tinh thần thụ động của sinh viên trong việc học tiếng Anh.
- BÀI HỌC TỪ CÁC QUỐC GIA KHÁC
- Các trường đại học dựa trên Phật giáo tại Hoa Kỳ
Các trường đại học dựa trên Phật giáo tại Hoa Kỳ cung cấp giáo dục về nghệ thuật tự do và các lĩnh vực chuyên nghiệp, trong khi sử dụng các phương pháp thử nghiệm thời gian của sư phạm truyền thống Phật giáo. Bởi vì những trường đại học này thường không được công chúng biết đến, nên cần cung cấp thông tin về lịch sử, chương trình học thuật và thành công giáo dục được tạo ra trong khuôn viên của họ. Các trường đại học này phục vụ như một mô hình giáo dục đại học thành công ở nhiều cấp độ khác nhau và mang lại kết quả khả quan cho cả những người cung cấp và những người nhận được giáo dục đại học.
Phật pháp đã lan truyền ở Hoa Kỳ theo nhiều cách khác nhau. Một cách quan trọng mà nó đã thấm thành công ý thức của công chúng rộng lớn hơn là thông qua các tổ chức giáo dục. Điều này phù hợp với bản chất của Phật giáo. Ở mỗi quốc gia mà nó được truyền bá trong lịch sử, nó đã tạo ra các trường học, trường đại học và các trung tâm khác nhau để học tập, thiền định và thực hành đạo đức. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu điều tra một loại tổ chức giáo dục Phật giáo đặc biệt, mà họ gọi là một trường “đại học dựa trên nền tảng Phật giáo” (Storch, 2013).
-
- Phật giáo ở các nước khác
Trong Phật giáo, tầm quan trọng của các chuỗi hiệu ứng do
nguyên nhân gây ra, với sự phân nhánh vượt xa mục tiêu chính của hành động khởi tạo (và thường là trở lại với tác nhân ban đầu), được liên kết chặt chẽ với các khái niệm trung tâm về hiệu ứng lan tỏa bên trong hoặc bên ngoài (Daniels, 2003).
Trên khắp lĩnh vực rộng lớn của lý thuyết xã hội, những giải thích về động cơ, lựa chọn và hành vi của con người thường tập trung vào cuộc tranh luận của cấu trúc cơ quan (Hay, 2001).
Trong Phật giáo, dường như có một vai trò mạnh mẽ được quy cho cơ quan về khả năng thay đổi động cơ và ý định cá nhân mặc dù điều kiện cuộc sống nghiệp chướng tích lũy có ảnh hưởng đến một tình trạng khó khăn bất cứ lúc nào. Động lực mong muốn nằm dưới sự kiểm soát của cá nhân mặc dù các lực lượng văn hóa có cấu trúc (hoặc ít nhất là bên ngoài) có ý nghĩa xác định và định hình vai trò, động cơ và địa vị của kinh tế xã hội và rộng lớn hơn. Một loạt các yếu tố sẽ hoạt động ở đây bao gồm các phương tiện truyền thông, nhà nước, hệ thống tài chính và các cấu trúc kinh tế và thể chế khác, quán tính công nghệ và cơ sở hạ tầng có xu hướng củng cố guồng quay của sản xuất,tiêu dùng. Điều này được tăng cường bởi sự khao khát các kích thích và niềm vui dựa trên tiêu dùng để lấp đầy khoảng trống do xã hội quy mô lớn, sự bất thường và mất liên kết cộng đồng.
3.3. Tạo ra các hệ thống kinh tế bền vững - Đóng góp từ quan điểm thế giới Phật giáo
Các đặc điểm chính của hệ thống kinh tế bền vững được lấy cảm hứng từ trí tuệ của thế giới Phật giáo. Nó bao gồm một cuộc thảo luận song song về bản chất của những thay đổi phù hợp cần thiết. Một hệ thống kinh tế của thành phố khác được mô tả ở đây là sự sắp xếp của con người có giao diện với môi trường vật chất để có được phúc lợi từ các nguồn nguyên liệu cuối cùng có nguồn gốc từ thiên nhiên. Phúc lợi cũng có thể được cung cấp từ các nguồn xã hội và tình cảm (và tinh thần) và, trong khi đó chắc chắn là những ảnh hưởng quan trọng đến kết quả kinh tế, theo định nghĩa, chúng có xu hướng nằm ngoài cốt lõi của kinh tế.
3.4. Những hỗ trợ thay đổi kinh tế khác
Một lựa chọn các thay đổi khác sẽ thúc đẩy các nền kinh tế bền vững lấy cảm hứng từ Phật giáo (BISE) là đáng chú ý. Một tính năng bổ sung của BISE sẽ là vai trò mở rộng của các doanh nghiệp và tổ chức sản xuất xã hội sản xuất hàng hóa từ bi trực tiếp - sản lượng kinh tế giảm thiểu xáo trộn môi trường và bị ảnh hưởng bởi các tác động lan tỏa tích cực đến xã hội để cải thiện đời sống làng quê ở Sri Lanka (Loy & Watts 1998).
Để hỗ trợ nhu cầu thông tin của nhiều thay đổi sản xuất và tiêu dùng, việc mở rộng đáng kể giáo dục và phát triển nguồn nhân lực là cần thiết cho các kỹ năng và kiến thức để hiểu và giảm thiểu xáo trộn kinh tế qua ba cõi. Sự liên kết nội tại của sự tồn tại đòi hỏi các nghiên cứu liên ngành có thể liên quan đến kiến thức sinh thái, kinh tế, tâm lý và tâm linh. Các qui luật khác của kinh tế sinh thái dường như là một bước trong hướng này.
- GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÂNG CAO CỦA VBU CÓ THỂ ĐÓNG GÓP VÀO THÀNH TÍCH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TOÀN CẦU CỦA TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Các nhà nghiên cứu có thể thực hiện các cuộc phỏng vấn với những người được hỏi có liên quan và nhận được những phát hiện về các cách thức nâng cao giáo dục và đào tạo VBU như sau:
(1) VBU có thể cung cấp cho Tăng đoàn Phật giáo các sinh viên tốt nghiệp có chất lượng để họ không những góp phần vào công cuộc phát triển tại Việt Nam, mà còn vào hội nhập toàn cầu và phát triển Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam. (2) Với cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Ban Xã hội của VBU có thể đóng góp các nhiệm vụ nâng cấp nguồn nhân lực cho cả người Việt Nam và Tăng đoàn Phật giáo Việt Nam trong các nhiệm vụ nâng cao điều kiện sống và giảm thiểu tệ nạn. Việc tiến hành các hoạt động từ thiện; và (3) Với sự đa dạng hóa của các khoa và sinh viên, VBU có thể mở rộng quy mô và bằng cấp về giáo dục và đào tạo, nhưng trên hết, VBU có thể nhận được ngân sách (nhận được từ trường học) cho sự tồn tại và phát triển của mình để có thể giành chiến thắng những mục tiêu
nêu trên, và có thể thoát khỏi những trở ngại và gánh nặng lớn đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHẬT GIÁO TẠI VIỆT NAM
Dựa trên các kết quả nghiên cứu trong VBU, do đó cần có kế hoạch sau:
- Yêu cầu Hội đồng quản trị VBU tập trung vào việc tăng cường cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng để nâng cao thành tích của sinh viên. Trọng tâm là các cơ sở cơ bản như lớp học, chỗ ở, cơ sở thể thao, cũng như cung cấp thư viện điện tử (elibrary) để cho phép các tu sĩ nam nữ làm quen với các nguồn và bài báo trên internet;
- Tập trung vào việc tăng cường đội ngũ giảng dạy và học tập tại VBU để nâng cao:
- Kiến thức, kỹ năng và năng lực về phương pháp dạy và học, đặc biệt là những phương pháp liên quan đến sử dụng công nghệ
- Kiến thức và thông tin bằng cách gửi cho họ tham dự các chương trình cung cấp trình độ cao hơn, chẳng hạn như chương trình cấp thạc sĩ hoặc tiến sĩ trong cả nghiên cứu Phật giáo cũng như các chương trình dựa trên thông tư như MBA; DBA; MSC hoặc các tiến sĩ khác; và
- Các tiện ích internet - để tăng cường và củng cố các cơ sở internet cho sinh viên học tập tại VBU nhằm cho phép các cơ sở và dịch vụ hỗ trợ trực tuyến và kết nối nhiều hơn để cải thiện thành tích của sinh viên.
- Thiếu ngân sách cho việc xây dựng khuôn viên mới của VBU tại Lê Minh Xuân. Việc xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam hiện đại mới trên khu đất rộng 23,8 ha tại Thành phố Hồ Chí Minh đang trong giai đoạn hoàn thành đầu tiên và thật khó để dự đoán hoàn thành do vấn đề kinh phí. Chỉ 83 tỷ đồng (khoảng 3,8 triệu đô la) trong số 2.000 tỷ đồng (khoảng 93 triệu đô la) - cho đến nay chỉ cần 4% yêu cầu về vốn (Thông tin của Học viện Phật giáo Việt Nam).
Thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp qua điện thoại (hoặc trực tiếp) một số chuyên gia, nhà giáo dục, giảng viên và thực hiện khảo sát thông qua câu hỏi với người trả lời, các tác giả của nghiên cứu này đưa ra kết luận về Đại học Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
- Đội ngũ Giáo thọ, nói chung không đủ số lượng tại VBU (đối với việc phân bổ giáo thọ không đồng đều: ở một số khoa, rất phong phú, và ở một số khoa còn thiếu), kinh nghiệm giảng dạy thấp, và không có hệ thống giáo thọ cơ hữu của khoa;
- Nhìn chung, danh hiệu học thuật và kiến thức môn học của giảng viên tương đối thấp;
- VBU không tuyển dụng giảng viên giỏi vì cơ chế và thiếu nguồn tài chính;
- VBU không xây dựng đủ cơ sở vật chất để phục vụ cho giáo dục và đào tạo vì thiếu kinh phí; và
- VBU không xây dựng hệ thống phòng ban, nhân viên chuyên môn và thành tích phù hợp chuyên môn ảnh hưởng đến nhu cầu của sinh viên.
Tuy nhiên, đổi mới đáng kể là cần thiết để cải thiện giáo dục đại học Phật giáo. Nếu được thực hiện đúng cách, Giáo dục đại học Phật giáo tại Việt Nam có thể đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, hoàn thành nhiệm vụ và quan trọng hơn là có thể vượt qua lĩnh vực học thuật thuần túy. Rốt cuộc, mục đích của Giáo dục Phật giáo ở cấp độ cao hơn là dạy cho con người đạt được sự giải thoát cá nhân bằng cách thực hành giáo lý Đức Phật trong cả cuộc đời. Trên hết, giáo dục này phải mang lại cho sinh viên thỏa mãn bản thân và thực sự hiểu Phật giáo.
- KHUYẾN NGHỊ
- Gợi ý về chất lượng giảng dạy và đào tạo
Quan điểm về “chất lượng giảng dạy và đào tạo” rất là phức tạp và mở ra cho một loạt các định nghĩa và diễn giải. Do đó, việc đánh
giá này đã áp dụng một cách tiếp cận thực tế, dựa trên cách tổ chức xác định chất lượng trong hoàn cảnh của chính họ.
Những thay đổi trong hồ sơ sinh viên và yêu cầu học tập trong những thập kỷ gần đây đã có tác động quyết định đến nội dung chương trình giảng dạy và phương pháp giảng dạy. Do đó, chất lượng giảng dạy phải được coi là năng động, như là một chức năng của sự thay đổi theo ngữ cảnh trong môi trường giáo dục đại học, như quốc tế hóa các nghiên cứu và các nhiệm vụ bổ sung mà giáo dục đang được yêu cầu thực hiện (đổi mới, phát triển đời sống công dân và phát triển khu vực), cung cấp một lực lượng lao động có kỹ năng phù hợp để đáp ứng những thách thức của thế kỷ XXI.
Giới thiệu một chính sách thể chế hiệu quả cho chất lượng giảng dạy liên quan đến việc khai thác sức mạnh tổng hợp giữa hai nhóm yếu tố: (1) Các yếu tố bên ngoài các tổ chức, ở cấp quốc gia và trong nhiều trường hợp quốc tế: chúng là nhân tố hỗ trợ hoặc chất xúc tác, thúc đẩy khí hậu chung để công nhận chất lượng giảng dạy là ưu tiên hàng đầu; (2) Các yếu tố thể chế bên trong: bối cảnh thể chế và hoàn cảnh cụ thể có khả năng ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của các sáng kiến giảng dạy chất lượng. Trên khắp các tổ chức có các lớp chồng chéo (tổ chức, bộ phận, ngành học, chương trình) ít nhiều mở ra cho các sáng kiến giảng dạy chất lượng và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo thời gian. Phần lớn các sáng kiến được thực hiện bởi các tổ chức để nâng cao chất lượng giảng dạy (ví dụ đánh giá chương trình hoặc đào tạo giảng viên) là theo kinh nghiệm và giải quyết các nhu cầu cụ thể của họ tại một thời điểm nhất định. Các sáng kiến lấy cảm hứng từ văn học hàn lâm và nghiên cứu về chủ đề này là rất hiếm. Đối với một trường đại học để củng cố các sáng kiến này một cách mạch lạc theo một chính sách thể chế vẫn là một nỗ lực lâu dài chịu nhiều ràng buộc. Không có mô hình để làm theo, mà là một loạt các điều kiện phải được đáp ứng. Các tổ chức nên nhận thức rằng đó là môi trường địa phương của trường đại học, chủ yếu định hình mức độ cam kết của nó đối với chất lượng giảng dạy và cam kết bền vững của lãnh đạo cấp cao của trường đại
học là cần thiết để thành công trong giảng dạy chất lượng. Khuyến khích các sáng kiến từ dưới lên, từ các giảng viên, đặt chúng vào một môi trường học tập và giảng dạy thuận lợi, hỗ trợ hiệu quả và kích thích sự phản ánh về vai trò của việc dạy học trong quá trình học tập đều góp phần vào chất lượng giảng dạy.
Các tổ chức tiên tiến nhất trong các sáng kiến nhằm thúc đẩy chất lượng giảng dạy đã quy định rõ ràng vai trò và nhiệm vụ của nhà giáo dục trong quá trình học tập và họ biết cách giải thích niềm tin của mình rằng chất lượng giảng dạy là một lĩnh vực quan trọng để phát triển. Cả quy mô và tính đặc thù của một tổ chức đều gây trở ngại lớn cho sự phát triển của các chính sách thể chế miễn là sự tham gia của quản lý, của tổ chức là rõ ràng và lâu dài, và nguồn tài chính đầy đủ và cơ sở vật chất đầy đủ được dành cho chất lượng giảng dạy.
Cam kết về phía tất cả các bên liên quan của trường đại học, và trên hết là bởi cộng đồng học thuật, là yếu tố quyết định thành công của bất kỳ chính sách nào nhằm cải thiện chất lượng giảng dạy. Sự tham gia thúc đẩy sự cống hiến và động lực của các giảng viên khi nó bắt đầu từ chính quan niệm về một hành động hoặc một chính sách trong đó chức năng giáo dục của họ được đưa ra và tuyên bố rõ ràng. Sự tham gia của các trưởng khoa cũng rất quan trọng khi các trưởng khoa, ở ngã tư đường giữa các cơ quan ra quyết định của một tổ chức và các giảng viên trong công việc, khuyến khích sự thụ tinh chéo của các phương pháp chiến lược, xây dựng và hỗ trợ các cộng đồng thực hành và nuôi dưỡng sự đổi mới trong thực tiễn hàng ngày trong lớp học.
Việc triển khai các chính sách cho chất lượng giảng dạy cũng dựa trên năng lực của một tổ chức để đạt được sự cân bằng giữa các khía cạnh kỹ thuật của hỗ trợ chất lượng (ví dụ: phát triển các câu hỏi đánh giá khóa học) và các vấn đề cơ bản được nêu ra (ví dụ: đánh giá giá trị gia tăng của các sáng kiến giảng dạy trong việc đạt được mục tiêu chương trình giảng dạy). Rõ ràng, các mục tiêu liên quan đến chất lượng giảng dạy có thể không bị giảm xuống, cũng không
đạt được thông qua, chỉ đơn thuần là cải tiến kỹ thuật hoặc mở rộng các cơ chế hiện có. Ngược lại, những vấn đề cơ bản này sẽ mất đi sự liên quan nếu chúng không được hỗ trợ bởi các hành động cụ thể được coi là hữu ích của cộng đồng học thuật. Tất cả chỉ là vấn đề cân bằng, được thiết kế riêng cho văn hóa và phương thức hoạt động của mỗi tổ chức.
Các sáng kiến giảng dạy chất lượng đã nhấn mạnh vai trò của giảng dạy trong quá trình chuyển đổi giáo dục, đã tinh chỉnh sự tương tác giữa nghiên cứu và giảng dạy và nuôi dưỡng văn hóa chất lượng trong cộng đồng học thuật.
Tuy nhiên, các tổ chức cần phát triển các phương pháp đánh giá sáng tạo để đo lường tác động của sự hỗ trợ của họ đối với chất lượng giảng dạy. Ngành giáo dục đại học vẫn đang vật lộn để hiểu mối liên hệ nhân quả giữa sự tham gia vào giảng dạy và chất lượng kết quả học tập. Lý do cho điều này nằm ở sự khác biệt trong cách tiếp cận giữa công việc giảng viên và các hoạt động học tập, khiến cho bất kỳ mối liên hệ nhân quả nào giữa đầu vào và kết quả đều khó đo lường, mặc dù các liên kết đó chắc chắn tồn tại. Các tổ chức có xu hướng giám sát các sáng kiến của họ về cơ bản thông qua các chỉ số hoạt động và tài nguyên (ví dụ: cấu trúc chương trình giảng dạy, sử dụng công nghệ giáo dục và số liệu tuyển sinh), trong khi kết quả học tập được hình thành bởi nhiều yếu tố xuất phát từ các biến phụ thuộc vào ngữ cảnh (ví dụ: sinh viên và đặc điểm giảng viên), từ bối cảnh học tập xảy ra (ví dụ như giảng dạy, sư phạm, phương tiện học tập) và từ kinh nghiệm học tập trước đây của học sinh. Một thăm dò về mối tương quan giữa các yếu tố đầu vào, quá trình và kết quả của giáo dục đại học đòi hỏi các phương pháp và công cụ đánh giá tiên phong và chuyên sâu.
Sự hỗ trợ cho chất lượng giảng dạy thường tạo ra nhận thức về trách nhiệm của các giảng viên trong quá trình học tập và biện minh cho nhu cầu thể chế để giúp họ hoàn thành nhiệm vụ.
-
- Đối với Giáo thọ
Các sáng kiến giảng dạy chất lượng cung cấp một dịp để các
giảng viên suy nghĩ về vai trò của chính họ trong việc nâng cao chất lượng: những sáng kiến này giúp họ giảng dạy tốt hơn. Đạt được giảng viên cam kết thực hành phản xạ và thích ứng hệ quả là rất quan trọng:
- Dạy học dựa trên công nghệ (ví dụ: nền tảng học tập điện tử), mạng nội bộ và diễn đàn thảo luận là các công cụ sư phạm có thể cải thiện sự tương tác giữa sinh viên với giảng viên và đánh giá tiến bộ của sinh viên;
- Điều quan trọng là liên kết thực tiễn và công cụ với chính sách giảng dạy chất lượng của tổ chức và liên kết kỳ vọng của giảng viên với kỳ vọng của tổ chức về kết quả học tập;
- Giảng viên là tác nhân trung tâm cho sự phản ánh về các tiêu chí đánh giá của chất lượng giảng dạy: Những khía cạnh nào phải được giải quyết và những thay đổi nào phải được đưa vào thực tế? Hợp tác với các đơn vị chất lượng trong thiết kế và thực hiện chương trình giảng dạy có thể là một điểm khởi đầu tốt;
- Định nghĩa về chất lượng giảng dạy liên quan đến từng giá trị, năng khiếu và thái độ của giảng viên: giảng dạy là một hoạt động năng động, có các khía cạnh chủ quan mạnh mẽ phụ thuộc vào triết lý và giá trị cá nhân và tập thể;
- Sự phát triển nghề nghiệp của giảng viên có thể bị ảnh hưởng bởi thực tế là các vấn đề giảng dạy chất lượng đang trở nên quan trọng và các tổ chức đang tìm cách khen thưởng các giảng viên cam kết giảng dạy chất lượng;
- Đặt mức độ giáo dục và trình độ cao hơn trong giáo dục, chẳng hạn như trình độ thạc sĩ và tiến sĩ để phù hợp (nếu có thể); và
- Tìm kiếm hỗ trợ tài chính từ Chính phủ, cá nhân và các tổ chức xã hội quan tâm đến giáo dục.
- Đối với sinh viên
Sinh viên, những người hưởng lợi chính của các sáng kiến giảng dạy chất lượng, đang ngày càng trở thành một lực lượng thúc đẩy chất lượng giảng dạy:
-
-
- Sinh viên có thể hợp tác với các giảng viên và nhà lãnh đạo trong định nghĩa của sáng kiến (và của chính khái niệm giảng dạy chất lượng), giữ cho sự tương tác tồn tại và làm tăng mối quan tâm về việc giảng dạy, môi trường học tập, chất lượng nội dung và thái độ của giảng viên. Họ có thể đóng góp tốt nhất nếu được mời phục vụ trong các cơ quan quản lý hoặc được sử dụng như các chuyên gia đánh giá ngang bằng với các nhà đánh giá học thuật; và (2) Các nhóm sinh viên có thể đưa ra những ý tưởng mới và ảnh hưởng đến chính sách của tổ chức về chất lượng giảng dạy bằng cách đưa ra các cuộc thảo luận và nêu vấn đề (Alves & Ra- poso, 2009).
- Các đề xuất cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Một trong những giải pháp và biện pháp có thể được sử dụng như gợi ý cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam như sau:
Cải cách giáo dục đại học Phật giáo (Thích Nhật Từ, 2012)
a) Trình độ và thời gian đào tạo
a1. Nghiên cứu Phật giáo cao hơn: Từ hai đến ba năm, đối với những người tốt nghiệp (Tăng ni) từ Trung cấp Phật học.
a2. Cử nhân Khoa học về Phật học: Bốn năm cho các Tăng ni, những người tốt nghiệp trung học, và từ Trung cấp Phật giáo, hoặc từ hai năm đến hai năm rưỡi để lấy bằng Cao học Phật giáo, theo khóa đào tạo chung.
a3. Thạc sĩ nghiên cứu Phật học: Từ hai đến ba năm học cho những người có bằng Cử nhân Phật học hoặc tương đương.
a4. Tiến sĩ về nghiên cứu Phật giáo: Từ hai đến năm năm học cho những người có bằng Thạc sĩ Phật học hoặc tương đương.
- Phương pháp đào tạo: Phương pháp đào tạo để học đại học Phật giáo tôn trọng kiến thức phương pháp, học cách tự giác, rèn luyện thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng tạo, giúp sinh viên Tăng nhân trở thành nhà nghiên cứu giỏi, thực hành ứng dụng tốt và cam kết như một sự truyền bá Phật giáo hiệu quả.
- Quy định về chương trình khung: Các trường cao đẳng Phật học độc lập ở các tỉnh hoặc VBU cần tuân thủ chương trình khung do Ban giáo dục Tăng đoàn Trung ương Phật giáo Việt Nam ban hành cho các chương trình đào tạo riêng ở các trường Cao đẳng Phật học, Cử nhân Khoa học Phật học, Thạc sĩ và Tiến sĩ Phật học, bao gồm cả cấu trúc của nội dung khóa học, thời gian đào tạo, tỷ lệ thời gian đào tạo được phân bổ giữa các môn học. Dựa trên chương trình khung trên, Trường Cao đẳng Nghiên cứu Phật học và VBU có thể mở rộng mức giảm tối đa 20% cho các môn học phù hợp và đặc điểm cụ thể của trường.
- Chương trình Đào tạo: Có những điểm tương đồng, tăng tới 80-90% so với chương trình Cao đẳng Đại học đã đề cập ở trên áp dụng cho hai năm học đầu tiên. Trong năm học thứ ba và thứ tư, VBU có thể đào tạo chuyên ngành bao gồm: (1) Khoa Pāli; (2) Khoa nghiên cứu tiếng Phạn và tiếng Tây Tạng của Phật giáo; (3) Khoa Phật giáo Trung Quốc; (4) Khoa Phật giáo Việt Nam; (5) Khoa Lịch sử Phật giáo; (6) Khoa Triết học Phật giáo; (7) Khoa Phật pháp tiếng Anh; (8) Khoa Trung văn Phật giáo; (9) Khoa Hoằng Pháp; và (10) Bộ môn Học từ xa. VBU không có đủ giảng viên để thành lập các khoa độc lập có thể chọn Khoa Triết học Phật giáo cho nội dung đào tạo năm học thứ ba và thứ tư (Thích Nhật Từ, 2012). Hơn nữa, Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên đề nghị Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam hợp tác nhiều với các tổ chức Phật giáo quốc tế để tổ chức các hội nghị khoa học về Phật giáo nhằm giảm chi phí trong việc tạo ra các sự kiện tại Việt Nam.
- Các đề xuất khác
Các đề xuất khác cho VBU như sau: VBUs nên đề xuất:
-
-
- Chiến lược đổi mới đa dạng hóa các khóa học, sinh viên;
- Sự mở rộng của tất cả các khoa để họ có thể cung cấp tất cả các hỗ trợ về nguồn nhân lực, giảng viên cho các yêu cầu đổi mới của hệ thống giáo dục và đào tạo; và
-
-
- Việc tăng học phí để VBU có thể có ngân sách mời các giảng viên thỉnh giảng xuất sắc.
Các đề xuất với Giáo hội Phật giáo Việt Nam như sau:
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần đề xuất các tổ chức liên quan của Chính phủ để có được sự chấp thuận và cấp phép cho các chương trình đổi mới của VBU;
- Thiết lập sự đa dạng hóa về các loại sinh viên, các loại chương trình và hệ thống đào tạo;
- Các nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phải tham gia các khóa học tiếng Anh để có thể giao tiếp với các đại biểu Phật giáo quốc tế trong các hội nghị cũng như dễ dàng nắm vững xu hướng phát triển Phật giáo trên toàn thế giới hiện nay (thông qua internet và các nguồn khác được xuất bản bằng tiếng Anh) trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu hóa.
***
Tài liệu tham khảo
Daniels, P. L. (2003): Buddhist economics and the environment: Material flow analysis and the moderation of society’s metabo- lism, International Journal of Social Economics, 30(1–2):
8–33.
Decree 43/2000/ND-CP, dated August 30, 2000, Detailing and guiding the implementation of a number of articles of the ed- ucation law and decision 52/2002/QDBGDDT, promulgating the regulation on management of education at all levels.
DeVido, E. (2007), Buddhism for This World: The Buddhist Re- vival in Vietnam, 1920 to 1951, and Its Legacy, Modernity and Re-Enchantment: Religion in Post-evolutionary Vietnam (2007): 250–96.
DeVido, E. (2007), The Influence of Chinese Master Taixu on Buddhism in Vietnam, Journal of Global Buddhism 10 (2009): 413–458.
Hay, C. (2001): What place for ideas in the structure-agency de- bate? Globalisation as a ‘process without a subject’, First Press: Writing in the Critical Social Sciences, Available at http://www. theglobalsite.ac.uk/ . Retrieved July 21, 2016.
Kitiarsa, P. (2012), Monks, Mediums, and Amulets: Thai Popular Buddhism Today, University of Washington Press, 2012.
Loy, D. & Watts, J. (1998): The religion of consumption: A Bud- dhist rebuttal, Development, 41(1): 61–66.
McDaniel, J. (2011), The Lovelorn Ghost and the Magical Monk: Practicing Buddhism in Modern Thailand. Columbia University Press, 2011.
McHale, S. F. (2004), Print and Power: Confucianism, Communism, and Buddhism in the Making of Modern Vietnam, University of Hawaii Press, 2004.
Miller, E. (2015), Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam, Cambridge: Harvard University Press, 2013.
Miller, E. (2013), Religious Revival and the Politics of Nation Building: Reinterpreting the 1963 ‘Buddhist Crisis’ in South Vietnam, Modern Asian Studies, June 2015, Pp. 1-60.
Nguyễguy0. Hoàng, (2015), Higher Buddhist Education in Viet- nam: Challenges and Solutions, Available at http://ibc.ac.th/ en/sites/default/files/attachment/BE3%20Dr%20Nguy- en%20Quy% 20Hoang%20%20Higher%20Buddhist%20 Education%20in%20%20Vietnam,%20 C h a l l e n g e s % 2 0 and%20Solutions.pdf/ , Retrieved July 12, 2016.
Report on the Directions and Tasks for 5-year Socio-Economic De- velopment for 2016- 2010 ‘period. (2015).
Soucy, A. (2012), The Buddha Side: Gender, Power, and Buddhist Practice in Vietnam, University of Hawaii Press, 2012.
Storch, T. (2013), Buddhist Universities in the United States of America. International Journal of Dharma Studies 2013 1:4, DOI:10.1186/2196-8802-1-4.
Taylor, K. W. (2013), A History of the Vietnamese, Cambridge Uni- versity Press, 2013.
Thích Nhật Từ (2012), Hư 12idge University Press, 2013.hư 12idge Univ, Có sẵn tại: http://www.daophatngaynay.com/vn/phat- giao-vn/su-kien-van-de/16738-huong-den-cai-c ach- giao- duc- phat-hoc-tai-viet-nam.html/ , Truy xuất ngày 22 tháng 7 năm 2016.
Thích Tâm Đức (2016), Trích taocuích tao-duc-phat-hoc-tai-vi- et-n8 năm 2016 t016HVPG Tp.o-duc-phat-hoc-tai-viet-nam.h Hồ Chí Minh.
Thích Thanh Từ (2001), Tr01)ềTr01)n g01, Có s)nts: http://www. thuongchieu.net/index.php/phapam/suongmp3/2829-tro- venguongoc/. Truy xuuy //www.thuongchieu.n2016.